Bản án 395/2020/DS-ST ngày 24/11/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 395/2020/DS-ST NGÀY 24/11/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 24 tháng 11 năm 2020, tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 321/2020/TLST-DS ngày 10 tháng 8 năm 2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 338/2020/QĐXXST- DS ngày 08 tháng 10 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 288/2020/QĐST-DS ngày 03/11/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần A; có trụ sở tại: Đường K, Phường N5, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngưi đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Minh T; chức vụ: Tổng Giám đốc.

Ngưi đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Châu Văn H; địa chỉ liên lạc: Đường T, Phường M, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Văn bản ủy quyền lập ngày 21/7/2020 (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Tiến D, sinh năm 1985; Địa chỉ: Đường N, Phường L, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần A và các lời khai tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Ngày 08/05/2015, Ngân hàng Thương mại Cổ phần A (sau đây viết tắt là Ngân hàng) cấp tín dụng cho Ông Nguyễn Tiến D bằng Hợp đồng tín dụng trả góp số BH2.CN.87.070515 (Số tài khoản vay: 197214149), với số tiền là 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng); thời hạn vay 60 tháng, từ ngày 08/5/2015 đến ngày 08/5/2020; mục đích vay tiêu dùng; lãi suất trong hạn 10.5%/năm; lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn.

Ngày 08/05/2020, khoản vay nêu trên đã đáo hạn nhưng Ông Nguyễn Tiến D không trả hết nợ vay cho Ngân hàng. Do đó, kể từ ngày 09/05/2020, Ngân hàng đã chuyển toàn bộ nợ vay chưa thanh toán của hợp đồng tín dụng nêu trên sang nợ quá hạn. Ngân hàng cũng đã chủ động liên hệ với ông D đề nghị thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng ông D không hợp tác. Vì vậy, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông D phải thanh toán số tiền nợ gốc là 16.660.000 đồng; tiền lãi trong hạn là 8.750.000 đồng; tiền lãi quá hạn là 1.304.686 đồng; tiền phạt chậm trả là 3.800.000 đồng. Tổng cộng số tiền ông D phải trả cho ngân hàng tạm tính đến ngày 03/11/2020 là 30.514.686đ (Ba mươi triệu năm trăm mười bốn nghìn sáu trăm tám mươi sáu đồng), trả làm một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, kể từ ngày 04/11/2020 ông D còn phải tiếp tục trả tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất nợ quá hạn thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng đã ký kết với Ngân hàng cho đến khi thanh toán xong nợ.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng và giấy triệu tập của Tòa án cho bị đơn là Ông Nguyễn Tiến D tại địa chỉ số Đường N, Phường L, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minhnhưng ông D không đến Tòa trong các buổi triệu tập làm việc và vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông D, không thu thập được tài liệu, chứng cứ từ phía ông D và không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa:

Đại diện nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Bị đơn Ông Nguyễn Tiến D đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp. Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về quan hệ tranh chấp, xác định tư cách tố tụng, thu thập chứng cứ, thủ tục phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cũng như việc gửi Quyết định đưa vụ án ra xét xử và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử vụ án.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng, nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70 và 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70 và 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp có căn cứ xác định yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở. Căn cứ Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng Thương mại Cổ phần A khởi kiện yêu cầu Ông Nguyễn Tiến D trả khoản nợ vay theo hợp đồng tín dụng đã ký kết với Ngân hàng. Đây là tranh chấp hợp đồng tín dụng, căn cứ Khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Căn cứ các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và kết quả xác minh của Công an Phường 15, Quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh xác định Ông Nguyễn Tiến D có đăng ký thường trú tại địa chỉ Đường N, Phường L, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh và hiện vẫn còn đang sinh sống tại địa phương. Vì vậy, căn cứ theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Đại diện nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; bị đơn là Ông Nguyễn Tiến D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự.

[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do Ngân hàng cung cấp gồm: Hợp đồng tín dụng trả góp số BH2.CN.87.070515 (số tài khoản vay 197214149) và thông báo lịch trả nợ vay ký ngày 08/5/2015 có bút tích và chữ ký của Ông Nguyễn Tiến D cũng như đối chiếu các văn bản, tài liệu khác, Hội đồng xét xử xét có cơ sở xác định giữa Ngân hàng với Ông Nguyễn Tiến D có giao kết hợp đồng như phía Ngân hàng trình bày.

Xét tại thời điểm giao kết, nội dung thoả thuận của các bên trong hợp đồng nêu trên về khoản tiền vay, lãi suất và trách nhiệm trả nợ phù hợp với quy định tại các điều 471, 474 và 476 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và thỏa thuận lãi suất phù hợp với quy định tại Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 là “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật” nên đã làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng.

Xét thấy, giao dịch do các bên xác lập tại thời điểm Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực thi hành, nhưng tại thời điểm ông D vi phạm nghĩa vụ thanh toán (08/5/2020), Bộ luật dân sự năm 2015 đã có hiệu lực thi hành và các quy định về nội dung, hình thức của giao dịch nêu trên phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự năm 2015. Căn cứ quy định tại Điều 688 của Bộ luật dân sự 2015 thì pháp luật được áp dụng để giải quyết tranh chấp trong trường hợp này là Bộ luật dân sự năm 2015. Do ông D vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông D phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán là phù hợp với quy định tại Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Ông D không đến Tòa án, không có lời khai, không cung cấp chứng cứ để xác nhận hoặc phản bác yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy, ông D đã từ bỏ các quyền được pháp luật quy định. Theo Khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”. Hội đồng xét xử căn cứ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ kiện do Ngân hàng cung cấp để xác định Ông Nguyễn Tiến D đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng là có cơ sở, được Hội đồng xét xử chấp nhận. Vì vậy, cần buộc ông D phải trả cho Ngân hàng số tiền 30.514.686 đồng (Trong đó, nợ gốc là 16.660.000 đồng; tiền lãi trong hạn là 8.750.000 đồng; tiền lãi quá hạn là 1.304.686 đồng; tiền phạt chậm trả là 3.800.000 đồng; tiền lãi tạm tính đến ngày 03/11/2020), trả làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Kể từ ngày 04/11/2020 ông D còn phải tiếp tục trả khoản tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất nợ quá hạn thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng đã ký kết cho đến khi thanh toán hết nợ.

[4] Xét ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án là có cơ sở nên ghi nhận.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Căn cứ quy định của Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn phải chịu tiền án phí đối với nghĩa vụ phải thực hiện với nguyên đơn.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

1. Buộc Ông Nguyễn Tiến D có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần A số tiền 30.514.686đ (Ba mươi triệu năm trăm mười bốn nghìn sáu trăm tám mươi sáu đồng) theo Hợp đồng tín dụng trả góp số BH2.CN.87.070515 (số tài khoản vay 197214149) ký ngày 08/5/2020, trả làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

(Trong đó, nợ gốc là 16.660.000 đồng; tiền lãi trong hạn là 8.750.000 đồng; tiền lãi quá hạn là 1.304.686 đồng; tiền phạt chậm trả là 3.800.000 đồng; tiền lãi tạm tính đến ngày 03/11/2020) Kể từ ngày 04/11/2020 ông D còn phải tiếp tục trả khoản tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất nợ quá hạn thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng đã ký kết cho đến khi thanh toán hết nợ.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Ông Nguyễn Tiến D phải chịu tiền án phí sơ thẩm là 1.525.700đ (Một triệu năm trăm hai mươi lăm nghìn bảy trăm đồng).

- Ngân hàng Thương mại Cổ phần A được nhận lại được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 742.641đ (Bảy trăm bốn mươi hai nghìn sáu trăm bốn mươi mốt đồng) theo biên lai thu số AA/2019/0026747 ngày 10/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

3. Về quyền kháng cáo: Ngân hàng Thương mại Cổ phần A và Ông Nguyễn Tiến D có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 395/2020/DS-ST ngày 24/11/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:395/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về