Bản án 394/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 394/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thủ đô Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 415/2019/TLST – HS, ngày 16 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 408/2019/QĐXXST- HS ngày 18 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1/-Họ và tên: ĐỖ THANH T - Sinh năm: 1981; Giới tính: Nam; HKTT và nơi ở: Số 121, Tổ 36, Phường H, Hoàng Mai, Hà Nội; Quốc tịch:Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Họ tên bố: Đỗ T (Sinh năm: 1961); Họ tên mẹ: Đỗ Thị Mai H (sinh năm: 1960); Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Họ và tên vợ: Nguyễn Thị Vân A (Sinh năm: 1982); Bị cáo có 03 con nhỏ; TATS (Theo danh chỉ bản số: 640, lập ngày: 15/08/2019 tại Công an quận Hoàng Mai, thủ đô Hà Nội): Không. Bị bắt khẩn cấp ngày: 13/08/2019, bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 02 - Công an thành phố Hà Nội- Có mặt tại phiên tòa.

2/-Họ và tên: NGUYỄN TUẤN A - Sinh năm: 1983; Giới tính: Nam; HKTT và nơi ở: Tổ 21, Phường T, Hoàng Mai, Hà Nội; Quốc tịch:Việt Nam;

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 4/12; Họ tên bố: Nguyễn Văn C (Sinh năm: 1960); Họ tên mẹ: Trần Thị N (sinh năm: 1965); Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Họ và tên vợ: Nguyễn Thị P (Sinh năm: 1980); Bị cáo có 02 con nhỏ; TATS (Theo danh chỉ bản số: 644, lập ngày: 14/08/2019 tại Công an quận Hoàng Mai, thủ đô Hà Nội): Không. Bị bắt quả tang ngày: 12/08/2019, bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 02 - Công an thành phố Hà Nội- Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1/-Anh Nguyễn Chiến S- Sinh năm:1984; Nơi ở: Tổ 21, phường T, quận Hoàng Mai, Hà Nội (-Có mặt-); 2/- Chị Nguyễn Thị Vân A – Sinh năm: 1982; Nơi ở: Số 121, tổ 36, phường H, quận Hoàng Mai, Hà Nội (-Có mặt-); 3/-Bà Nguyễn Thị D – Sinh năm: 1967; Nơi ở: Số 4B, tổ 36, phường H, quận Hoàng Mai, Hà Nội (- Vắng mặt-).

Người làm chứng: Anh Nguyễn Quang H – Sinh năm: 1991; Nơi ở: Tổ 02, phường V, quận Hai bà Trưng, Hà Nội(-Vắng mặt-).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, thủ đô Hà Nội truy tố:

Hồi 13 giờ 00 phút ngày 12/8/2019, Tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Hoàng Mai, Hà Nội làm nhiệm vụ tại khu vực trước nhà số 204 ngõ 108 Phố M, phường Mai Động, quận Hoàng Mai, Hà Nội phát hiện Nguyễn Chiến S điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Dream màu nâu tím, biển kiểm soát 29F6 – 97.. phía sau chở Nguyễn Tuấn A ( là anh trai của S ) có biểu hiện nghi vấn, tiến hành kiểm tra, Nguyễn Tuấn A tự nguyện giao nộp 01 gói nhỏ (1cm x 2 cm) bên ngoài quấn băng dính màu trắng bên trong có 01 túi ni lông màu trắng trong chứa chất tinh thể màu trắng và khai nhận là ma túy tổng hợp mua về để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản thu giữ số ma túy trên, đưa Nguyễn Tuấn A và Nguyễn Chiến S cùng xe máy về trụ sở Công an phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội để giải quyết. Theo kết luận giám định số 5250/KLGĐ - PC09 ngày 18/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni lông quấn ngoài bằng băng dính màu trắng (thu giữ của Nguyễn Tuấn A) là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,218 gam. Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai, bị cáo Nguyễn Tuấn A khai nhận do có nhu cầu sử dụng ma túy nên hồi 12 giờ 00 phút ngày 12/8/2019, Tuấn A có nhờ Nguyễn Chiến S chở ra khu vực ngõ 288 đườngH, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Tại đây, Tuấn A bảo S đứng đợi ở đầu ngõ, Tuấn A đi vào nhà số 121 thuộc tổ 36 phường H, quận hoàng Mai, Hà Nội gặp mua của Đỗ Thanh T 01 gói ma túy tổng hợp loại Methamphetamine với giá 100.000 đồng. Sau đó, Tuấn A cầm gói ma túy trong tay phải, đi ra đầu ngõ bảo S chở đi. Khi S chở Tuấn A đi đến đoạn đường đối diện nhà số 204 ngõ 108 M, phường M, quận Hoàng Mai, Hà Nội thì bị Tổ công tác Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Hoàng Mai phát hiện bắt giữ cùng vật chứng. Cơ quan điều tra đã cho Nguyễn Tuấn A nhận dạng về Đỗ Thanh T. Kết quả Tuấn A nhận dạng được Đỗ Thanh T, cùng ngày 12/8/2019, Công an quận Hoàng Mai đã dẫn giải Tuấn A đi xác định địa chỉ mua ma túy. Tuấn A đã chỉ ra tại số nhà 121 tổ 36 phường H, quận Hoàng Mai, Hà Nội là nhà của Đỗ Thanh T là người bán ma túy cho Tuấn A. Ngày 13/8/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai bắt khẩn cấp Đỗ Thanh T, thu giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi màu vàng; 01 xe máy Honda Vision màu xanh (không biển kiểm soát); số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn đồng). Khám xét khẩn cấp nơi ở của T nhưng không phát hiện thu giữ được đồ vật tài liệu nào liên quan vụ án. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai, Đỗ Thanh T khai nhận: Hồi 10 giờ ngày 12/8/2019, tại khu vực hồ Đền Lừ, quận Hoàng Mai, Hà Nội, T được 01 nam thanh niên bạn xã hội cho 01 gói ma túy tổng hợp. Tùng mang về với mục đích để sử dụng và nếu có ai hỏi thì sẽ bán. Đến 12 giờ 50 sáng ngày 12/8/2019, Nguyễn Tuấn Anh đến nhà Tùng hỏi mua ma túy.

T đã bán cho Tuấn A 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng. Quá trình điều tra Nguyễn Chiến S khai không biết việc Nguyễn Tuấn A mua ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy, phù hợp với lời khai của Nguyễn Tuấn A, Đỗ Thanh T, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai đã không xử lý đối với Nguyễn Chiến S. Về người thanh niên cho Đỗ Thanh T 01 gói ma túy tổng hợp là Methamphetamine quá trình điều tra không xác định được nên, Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, xử lý. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu, biển kiểm soát 29 F6 – 97.. xác minh xe có số máy 8005659; số khung 8005659 là số nguyên thủy. Người đứng tên đăng ký xe máy tên Nguyễn Thị D. Chị D đã bán xe máy trên cho Nguyễn Chiến S. Ngày 06/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai đã trả chiếc xe máy cho S nhận lại và không có ý kiến gì. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu xanh, không biển kiểm soát, xác minh xe có số khung 961200; số máy: 1061355 là số nguyên thủy, do chị Nguyễn Thị Vân A bỏ tiền mua nhưng để chồng là Nguyễn Thanh T đứng tên người mua ngày 10/9/2018. Nên ngày 06/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai đã trả chiếc xe máy trên cho chị Nguyễn Thị Vân Anh nhận lại, không có ý kiến gì thêm. Về chiếc điện thoại Xiaomi màu vàng thu giữ của Nguyễn Thanh T là tài sản cá nhân của T. Số tiền 300.000 đồng trong đó có 100.000 đồng tiền bán ma túy cho Nguyễn Tuấn A còn lại 200.000 đồng là của T không dùng liên quan đến việc mua bán ma túy.

Tại bản cáo trạng số: 396/CT-VKS-HM, ngày 14/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, thủ đô Hà Nội đã: Truy tố bị cáo Đỗ Thanh T về tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015. Truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn A về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[2] Tại phiên tòa: Bị cáo Đỗ Thanh T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo về tội mua bán trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội. Bị cáo Nguyễn Tuấn A cũng đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo về tội tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội. Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như bản cáo trạng. Sau khi phân tích, đánh giá tích chất, mức độ hành vi phạm tội; nhân thân của từng bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt: bị cáo Đỗ Thanh T từ 28 đến 32 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Đỗ Thanh T. Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt: bị cáo Nguyễn Tuấn A từ 18 đến 22 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tịch thu tiêu hủy 0,218 gam METHAMPHETAMINE. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Tuấn A. Phần tranh luận tại phiên tòa, hai bị cáo đều lần lượt thừa nhận Kiểm sát viên luận tội và kết luận bị cáo T phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo Tuấn A phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng, nên không tranh luận; hai bị cáo đều lần lượt từng người trả lời rằng họ chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên về hướng giải quyết toàn bộ vụ án.

[3] Lời nói sau cùng của bị cáo: Hai bị cáo đều lần lượt từng người có ý kiến như sau: “Bị cáo biết hành vi của mình là sai trái và có tội. Bị cáo rất ăn năn, hối cải và luôn thành khẩn khai báo, do đó bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất, để sớm được trở về gia đình và hòa nhập xã hội”.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, các quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai và của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, hai bị cáo đều chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật, không có khiếu nại, tố cáo. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện phù hợp với các quy định của pháp luật.

[2] Xét hành vi nguy hiểm của hai bị cáo bị truy tố: Tại các Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản thu giữ, niêm phong và mở niêm phong tang vật; Quyết định trưng cầu giám định xác định khối lượng, loại ma túy của Cơ quan Cảnh sát điều - Công an quận Hoàng Mai; Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thủ đô Hà Nội, cùng các tài liệu, chứng cứ khác thể hiện: Khoảng 12 giờ 50 phút, ngày 12/08/2019, tại địa bàn quận Hoàng Mai, Hà Nội, bị cáo Đỗ Thanh T đã thành niên, đã đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi bán trái phép 0,218 gam METHAMPHETAMINE với mục đích để kiếm lời. Hành vi của bị cáo Đỗ Thanh T đã bị phát hiện và thu hồi tang vật là ngoài ý muốn của bị cáo. Từ sự phân tích trên, thấy: Hành vi của bị cáo Đỗ Thanh T đã đủ yếu tố cấu thành “Tội mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015. Điều luật quy định: “ 1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, thủ đô Hà Nội truy tố bị cáo Đỗ Thanh T về tội danh và điều luật đã viện dẫn là đúng người, đúng tội. Khoảng 13 giờ 00 phút, ngày 12/08/2019, tại địa bàn quận Hoàng Mai, Hà Nội, bị cáo Nguyễn Tuấn A đã thành niên, đã đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi tàng trữ trái phép 0,218 gam METHAMPHETAMINE với mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Tuấn A đã bị phát hiện và thu hồi tang vật là ngoài ý muốn của bị cáo. Từ sự phân tích trên, thấy: Hành vi của bị cáo Nguyễn Tuấn A đã đủ yếu tố cấu thành “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Điều luật quy định: “ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: c/-Heroine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 đến dưới 0,5 gam”. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, thủ đô Hà Nội truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn A về tội danh và điều luật đã viện dẫn là đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, về hình phạt chính, hình phạt bổ sung: Xét hành vi phạm tội của 02 bị cáo có tính chất, mức độ nguy hiểm lớn cho xã hội. Xác định hành vi nguy hiểm của 02 bị cáo là tội phạm nghiêm trọng. Các hành vi đó đều đã xâm phạm chính sách của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý; gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người; đồng thời có thể là nguyên nhân dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật khác; gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh trật tự xã hội. Do vậy, cần phải xử lý 02 bị cáo nghiêm bằng pháp luật hình sự là áp dụng hình phạt tù có thời hạn, như đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát là tương xứng đối với hành vi phạm tội của 02 bị cáo. Về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: 02 bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, 02 bị cáo đều đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo, với mức án bằng với mức án mà Vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị, cũng là tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo, mới có đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Đối với tội phạm về ma túy, ngoài hình phạt chính 02 bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xét thấy: 02 bị cáo đều không có công việc và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng lớn, nên không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Vì vậy, thấy không nên áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với 02 bị cáo.

[4] Về áp dụng Biện pháp tư pháp: Khi bắt quả tang bị cáo Nguyễn Tuấn A có hành vi tàng trữ trái pháp chất ma túy, Công an thu giữ của bị cáo 0,218 gam METHAMPHETAMINE. Sau đó, thu giữ của bị cáo Đỗ Thanh T số tiền 300.000 đồng, trong đó có 100.000 đồng là tiền do bị cáo Đỗ Thanh T đã bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Tuấn A mà có. Vì vậy: Căn cứ vào Điều 47 - Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 – Bộ luật tố tụng hình sự 2015, thấy cần: Tịch thu tiêu hủy Tịch thu tiêu hủy 0,218 gam METHAMPHETAMINE. Tịch thu sung công 100.000 đồng, nằm trong số tiền 300.000 đồng thu giữ của bị cáo T nói trên.Còn lại số tiền 200.000 đồng (Nằm trong số tiền 300.000 đồng thu giữ của bị cáo T nói trên, là tiền riêng của bị cáo Đỗ Thanh T, không liên quan đến việc mua bán ma túy) và chiếc điện thoại XIAOMI màu vàng (Đã thu giữ của bị cáo Đỗ Thanh T, cũng là tài sản riêng của bị cáo Đỗ Thanh T, không liên quan đến việc mua bán ma túy). Vì vậy: Căn cứ vào Điều 48 - Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 – Bộ luật tố tụng hình sự 2015, thấy cần: Trả lại cho bị cáo Đỗ Thanh T 01 chiếc điện thoại XIAOMI màu vàng và số tiền 200.000 đồng nói trên, nhưng cần tạm giữ cả 02 tài sản này, để đảm bảo thi hành án đối với bị cáo Đỗ Thanh T. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA DREAM màu nâu, BKS: 29.F6 – 9700, số máy: 8005659, số khung:

8005659 chủ sở hữu là bà Nguyễn Thị D. Bà D đã bán chiếc xe máy trên cho anh Nguyễn Chiến S. Vì vậy: Ngày 06/01/2019, Công an quận Hoàng Mai đã trả lại cho anh Nguyễn Chiến S chiếc xe máy trên. Anh S đã nhận đủ chiếc xe máy trên, không có yêu cầu gì thêm, nên tòa không xét. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA VISION màu xanh, không biển soát, xác minh xe có số khung: 961200, số máy: 1061355 là số nguyên thủy, do chị Nguyễn Thị Vân A bỏ tiền mua, nhưng để chồng là Đỗ Thanh T đứng tên người mua vào ngày: 10/09/2018. Nên vào ngày: 06/11/2019, Công an quận Hoàng Mai đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Vân A nhận lại đầy đủ và không có yêu cầu gì thêm về dân sự, nên tòa không xét.

[5] Án phí: 02 Bị cáo đều phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: 02 Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đều có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[7] Các vấn đề khác: Quá trình điều tra, anh Nguyễn Tiến S khai không biết Nguyễn Tuấn A mua về để tàng trữ trái phép ma túy về để sử dụng cho bản thân Nguyễn Tuấn A, phù hợp với lời khai của Nguyễn Tuấn A, Đỗ Thanh T, nên Cơ quan CSĐT Công an quận Hoàng Mai đã không xử lý, nên tòa không xét.Về người thanh niên cho Đỗ Thanh T METHAMPHETAMINE, quá trình điều tra không xác định được, nên Cơ quan CSĐT Công an quận Hoàng Mai đã không xử lý, nên tòa không xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251 (Đối với bị cáo Đỗ Thanh T); Điểm c Khoản 1 Điều 249 (Đối với bị cáo Nguyễn Tuấn A); Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm đ khoản 1 Điều 32; Điều 38 và Điều 47; Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 106, 136, 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1.Xử phạt bị cáo Đỗ Thanh T: 30 (Ba mươi) tháng tù về “Tội mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày: 13/08/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Đỗ Thanh T.

2.Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn A: 18 (Mười tám) tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày: 12/08/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Tuấn A.

3.Biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy: 0,218 gam METHAMPHETAMINE. Tịch thu sung công: 100.000 đồng [Nằm trong số tiền 300.000 đồng đã thu giữ của bị cáo Đỗ Thanh T. Số tiền 300.000 đồng này đã được nộp tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hoàng Mai theo giấy nộp tiền ngày 05/11/2019]. Trả lại cho bị cáo Đỗ Thanh T: 01 chiếc điện thoại XIAOMI màu vàng và số tiền 200.000 đồng nói trên [Nằm trong số tiền 300.000 đồng đã thu giữ của bị cáo Đỗ Thanh T. Số tiền 300.000 đồng này đã được nộp tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hoàng Mai theo giấy nộp tiền ngày 05/11/2019], nhưng cần tạm giữ cả 02 tài sản này, để đảm bảo thi hành án đối với bị cáo Đỗ Thanh T. Các vật chứng nêu trên, hiện đang lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàng Mai, thủ đô Hà Nội, theo Quyết định chuyển vật chứng số 318/2019/QĐ-VKS-HM, ngày 14/11/2019.

4. Về án phí: Bị cáo Đỗ Thanh T và bị cáo Nguyễn Tuấn A, mỗi người đều phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt, đều có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (29/11/2019). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 394/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:394/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về