Bản án 392/2017/HSST ngày 25/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 392/2017/HSST NGÀY 25/10/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 10 năm 2017, tại Hội trường trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 379/2017/HSST ngày 05 tháng 10 năm 2017 đối với  bị cáo

Họ và tên: Lưu Văn V, tên gọi khác: không sinh ngày: 26/6/1983; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm L, xã V, huyện P, tỉnh Thái Nguyên; dân tộc: Kinh; văn hóa: 5/12; nghề nghiệp: không; con ông: Lưu văn K (đã chết) và bà Đỗ Thị T; có vợ: Vũ Thị T1, có hai con chung; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/8/2017 đến nay; Có mặt tại phiên toà.

NHẬN THẤY

Bị cáo Lưu Văn V bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Hồi 6 giờ 15 phút ngày 02/8/2017, tổ công tác của Công an phường Q, thành phố Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 18 của phường, phát hiện và bắt quả tang và thu giữ tại túi quần bên trái của Lưu Văn V, sinh năm 1983, đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm L, xã V, huyện P, tỉnh Thái Nguyên 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng.  V khai chất bột màu trắng là Hêrôin, mục đích mua về để sử dụng cho bản thân.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân xác định trọng lượng số chất bột màu trắng thu giữ của  V có trọng lượng là 0,141gam.

Tại bản Kết luận giám định số 918/KL-PC54 ngày 09/8/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: chất bột màu trắng thu giữ của V là chất ma túy, loại Hêrôin, có trọng lượng 0,141 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Lưu Văn V khai: Khoảng 5 giờ 45 phút ngày 02/8/2017, V đi xe ôm của một người không quen biết từ nhà xuống khu vực tổ 18, phường Q, thành phố Thái Nguyên với mục đích mua ma túy để sử dụng. Đến nơi,  V xuống xe đi bộ vào chợ, gặp 01 người đàn ông không quen biết, hỏi mua 01 gói Hêrôin giá 100.000 đồng. V cầm và cất gói ma túy vào túi quần phía trước bên trái đang mặc và đi tìm chỗ sử dụng. Khi đi bộ được khoảng 50 mét thì bị tổ công tác Công an phường Q phát hiện bắt quả tang như nêu trên.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 (một) phong bì kí hiệu V hiện đang được lưu giữ, bảo quản tại kho vật chứng chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

Tại bản cáo trạng số 397/KSĐT-MT ngày 05/10/2017 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã quyết định truy tố Lưu Văn V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà bị cáo Lưu Văn V khai nhận toàn bộ hành vi đúng như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên bản cáo trạng số 397/KSĐT-MT ngày 05/10/2017, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lưu Văn V phạm tội “Tàng trữ  trái phép chất ma túy”;

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật hình sự; Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa  đổi, bổ  sung  một  số  điều theo Luật  số 12/2017/QH14, khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Lưu Văn V từ 24 đến 30 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo; Tịch thu, tiêu hủy phong bì niêm phong ký hiệu V.

Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, với vật chứng đã thu được, Kết luận giám định và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ xác định: Khoảng 5 giờ 45 phút ngày 02/8/2017 Lưu Văn V đã có hành vi mua 0,141 gam hêroin mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố Lưu Văn V về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo bản cáo trạng số 397/KSĐT-MT ngày 05/10/2017 là có căn cứ. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

Hành vi của bị cáo xâm phạm đến quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma tuý, gây mất an ninh trật tự tại địa phương.

Đối chiếu với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự  là thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 48 Bộ Luật hình sự.

Căn cứ Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 của Quốc hội quy định:

“ Kể từ ngày Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13... được công bố, tiếp tục thực hiện các quy định sau đây: …h, Thực hiện các quy định tại khoản 3 Điều 7 của Bộ luật hình sự năm 2015...”.

Tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Điều luật ... quy định một hình phạt nhẹ hơn ... và quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật có hiệu lực thi hành”.

Dẫn chiếu tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có mức hình phạt cao nhất là 5 năm tù, nhẹ hơn mức hình phạt cao nhất là 7 năm tù quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Vì vậy, áp dụng hình phạt theo nguyên tắc có lợi cho bị cáo.

Hội đồng xét xử xét thấy, cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe và phòng ngừa chung. Mức án đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là phù hợp.

Về hình phạt bổ sung, xét thấy bị cáo là người nghiện, sống phụ thuộc, theo biên bản xác minh của cơ quan điều tra và lời khai tại phiên tòa, bị cáo không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Cần áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy phong bì niêm phong bên trong chứa Hê rô in thu giữ của Lưu Văn V còn lại sau giám định ký hiệu V.

Bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố : bị cáo Lưu Văn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật hình sự; Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14, khoản 3 Điều 7,  điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015

Xử phạt Lưu Văn V 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/8/2017.

Áp dụng Điều 228 Bộ luật tố tụng Hình sự, Quyết định tạm giam bị cáo Lưu Văn V 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu, tiêu hủy phong bì niêm phong ký hiệu V. (Hiện vật chứng nêu trên đang lưu giữ tại kho của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên theo biên bản giao nhận ngày 09/10/2017)

Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 32/2016/UBTVQH14 buộc bị cáo Lưu Văn V phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 392/2017/HSST ngày 25/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:392/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về