Bản án 39/2021/HS-ST ngày 10/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 39/2021/HS-ST NGÀY 10/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 10 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 36/2021/TLST- HS ngày 07 tháng 4 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/QĐXXST- HS ngày 27 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Văn S; Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam Sinh ngày: 25 tháng 12 năm 1992 tại huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai; nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12;

Nơi cư trú: Thôn Đồng Tâm, xã S, huyện B, tỉnh L Con ông Bùi Quốc T; con bà: Hoàng Thị Đ Tiền sự: Không; Tiền án: Không Về nhân thân, bị cáo Bùi Văn S đã có 03 (ba) tiền án: Theo bản án số 55/HSST ngày 27/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”; theo bản án số 23/HSST ngày 18/6/2014 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”; theo bản án số 34/HSST ngày 14/8/2014 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng xử phạt 15 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nghiệm chiếm đoạt tài sản”. Đã được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/01/2021, bị tạm giam từ ngày 14/01/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Cai. Có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến:

Anh Vàng A V (sinh năm 1988; nơi cư trú : thôn Ún Tà, xã Cốc San, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai)“Vắng mặt”.

Chị Vũ Thị L; sinh năm 1990; Trú tại: Tổ 12, phường Xuân Tăng, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

15 giờ ngày 11/01/2021, tổ công tác phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Lào Cai làm nhiệm vụ tại khu vực thuộc tổ 5, phường Lào Cai, thành phố Lào Cai phát hiện và thu giữ của Bùi Văn S 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong có 03 (ba) gói nilon, bên trong đều chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng, Bùi Văn S khai nhận là ma túy “Đá” cất giấu với mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra, còn tạm giữ của Bùi Văn S 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, trong lắp thẻ sim số thuê bao 0358705590 và 0923640152. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh Lào Cai tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Bùi Văn S tại số nhà 88, đường Lê Khôi, tổ 09, phường Lào Cai, thành phố Lào Cai. Thu giữ: trên giường ngủ của Bùi Văn S 01 (một) hộp nhựa màu trắng, có nắp đậy, bên trong có 01 (một) túi nilon có mép miết chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng, trên nóc tủ quần áo 01 (một) túi nilon có mép miết bên trong dính các hạt tinh thể màu trắng; 01 chiếc quần bò màu xanh túi có 80 (tám mươi) túi nilon có miết mép loại túi nhỏ; 01 (một) cân tiểu ly. Bùi Văn S khai nhận 80 (tám mươi) túi nilon và chiếc cân tiểu ly là của người nam giới tên Minh (không biết họ) nhà ở xã Thái Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai gửi ngày 10/01/2021 Tại bản kết luận giám định về ma túy số 38/GĐMT ngày 13/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận:

Mẫu M1: 6,77 (sáu phẩy bảy mươi bảy) gam các hạt tinh thể, màu trắng gửi giám định là loại chất ma túy Methamphetamine.

Mẫu M2: 0,24 (không phẩy hai mươi tư) gam các hạt tinh thể, màu trắng gửi giám định là loại chất ma túy Methamphetamine.

Mẫu M3: các hạt tinh thể màu trắng, bám dính trong túi nilon gửi giám định là loại chất ma túy Methamphetamine; không xác định được khối lượng các hạt tinh thể, màu trắng bám dính trong túi nilon này Cáo trạng số 36/KSĐT ngày 06/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố bị cáo Bùi Văn S phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Bùi Văn S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như tóm tắt ở trên và xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Văn S đã phạm vào tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 05 (năm) năm 06 tháng đến 06 (sáu) năm tù.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự xử lý theo quy định của pháp luật.

Tính án phí và tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Bùi Văn S: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận tội, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, tang vật thu giữ và kết luận giám định. Do nghiện ma túy nên khoảng 11 giờ ngày 11/01/2021, bị cáo vào khu vực đường Trần Phú tổ 14, phường Nam Cường để mua của người nam giới không biết tên tuổi và địa chỉ 04 gói ma túy Methamphetamine với giá 2.500.000đ (hai triệu năm trăm nghìn đồng) về cất dấu vào chiếc can nhựa 1 gói 3 gói cho vào vỏ bao thuôc lá để sử dụng. Trên đường đi bộ ra công viên Hồ Chí Minh thì bị công an thành phố Lào Cai kiểm tra hành chính và thu giữ trong túi quần bị cáo đang mặc 03 (ba) gói ma túy Methamphetamine.

Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trái phép chất ma túy” Tội phạm được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Do vậy hội đồng xét xử cần phải áp dụng một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có thể giáo dục bị cáo trở thành con người sống có ích cho xã hội đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có Về nhân thân, bị cáo Bùi Văn S có nhân thân xấu, bị cáo đã có 03 (ba) tiền án:

Theo bản án số 55/HSST ngày 27/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”; Theobản án số 23/HSST ngày 18/6/2014 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”; Tại bản án số 34/HSST ngày 14/8/2014 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng xử phạt 15 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nghiệm chiếm đoạt tài sản”. Đã được xóa án tích.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình nên cần áp dụng điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy đinh “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên bị cáo không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ 7,01 (bảy phẩy không một) gam Methamphetamin. Còn lại sau trích mẫu giám định: 6,75 (sáu phẩy bảy lăm) gam Methamphetamin cùng toàn bộ niêm phong được tái niêm phong bằng bì thư in sẵn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai và hoàn trả lại cơ quan trưng cầu. Trên một mặt của bì niêm phong mới này có ghi “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ Bùi Văn S có hành vi phạm tội về ma túy. 01 (một) cân tiểu ly; 01 (một) hộp nhựa có nắp đậy màu trắng; 80 (tám mươi) túi nilon có mép miết; 01 (một) chiếc quần bò màu xanh.Xét thấy đây thuộc danh mục các chất Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ theo điểm a,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a,c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự là phù hợp.

01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu đen, số IMEI 1: 869183037769738, bên trong máy có lắp sim số thuê bao 0358705590 và số thuê bao 0923640152 không liên quan đến vụ án nhưng bị cáo còn phải chịu tiền án phí theo quy định nên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

Đối với người nam giới không biết tên đã bán ma túy cho bị cáo ngoài lời khai của bị cáo Bùi Văn S ra không có tài liệu nào khác làm rõ nên không đề cập xử lý trong vụ án này.

Đối với chị Vũ Thị L là người chung sống như vợ chồng với Bùi Văn S tại tổ 9, phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, là chủ sở hữu của chiếc quần bò màu xanh, bên trong túi quần bên phải đựng 80 (tám mươi) túi nilon có mép miết bị thu giữ trong quá trình khám xét khẩn cấp. Quá trình điều tra xác định, chị Luy không biết việc Sinh cất giấu ma túy trên người và trong phòng ở; chị Luy cũng không biết việc Sinh cho Minh gửi 80 (tám mươi) túi nilon có mép miết vào trong túi quần bò của chị nên không đề cập xử lý đối với chị Vũ Thị L là đúng quy định của pháp luật.

Đối với người nam giới tên Minh ở xã Thái Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai bị cáo khai gửi bị cáo 80 (tám mươi) túi nilon có miết mép loại túi nhỏ; 01 (một) cân tiểu ly. Xét thấy không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Ngoài lời khai của bị cáo ra không có tài liệu khác để chứng minh nên không đề cập xử lý.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điều 136 khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Bùi Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn S 06 (sáu) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11/01/2021.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 6,75 (sáu phẩy bảy mươi lăm) gam ma túy Methamphetamine còn lại sau trích mẫu giám định được niêm phong bằng bì thư in sẵn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai; 01 (một) cân tiểu ly; 01 (một) hộp nhựa có nắp đậy màu trắng; 80 (tám mươi) túi nilon có mép miết; 01 (một) chiếc quần bò màu xanh thu trong vụ Bùi Văn Scó hành vi phạm tội về ma túy. Phát hiện thu giữ ngày 11 tháng 01 năm 2021 tại tổ 5, phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai”.Theo biên bản giao nhận của Chi cục Thi hành án ngày 19/4/2021.

Tạm giữ để đảm bảo thi hành án 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu đen, số IMEI 1: 869183037769738, bên trong máy có lắp sim số thuê bao 0358705590 và số thuê bao 0923640152

Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Bùi Văn S phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2021/HS-ST ngày 10/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:39/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về