Bản án 39/2021/HNGĐ-ST ngày 18/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 39/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 18 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hồng Dân mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 304/2020/TLST–HNGĐ, ngày 21 tháng 12 năm 2020 về việc tranh chấp xin ly hôn và nuôi con theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31A/2021/QĐXXST–HNGĐ, ngày 20 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị L, sinh năm 1982. Địa chỉ: Ấp L, xã L, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

2. Bị đơn: Anh Trần Văn P, sinh năm 1981. Địa chỉ: Ấp C, xã V, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị Trần Thị L vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt; anh Trần Văn P vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu Cúc trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh P có tổ chức đám cưới trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường An Khánh, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ vào ngày 21/4/2017. Trong thời gian đầu, vợ chồng anh chị chung sống với nhau hạnh phúc nhưng được một thời gian thì phát sinh mâu thuẩn do vợ chồng anh chị bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 01 năm cho đến nay. Nay chị L nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị L yêu cầu được ly hôn với anh Trần Văn P.

Về quan hệ con chung: Chị L xác định trong quá trình chung sống, giữa chị và anh Trần Văn P có 01 người con chung là cháu Trần Gia Bảo, sinh ngày 17/01/2017. Hiện nay cháu Bảo đang sống chung với chị L nên chị L yêu cầu được nuôi con và chị L yêu cầu anh P phải cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Về tài sản chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị L không có yêu cầu gì khác.

Đối với bị đơn anh Trần Văn P không cung cấp lời khai của mình cho Tòa án, Tòa án có đến nơi cư trú của anh P để lấy lời khai nhưng anh P vắng mặt. Cơ quan có thẩm quyền tại địa phương nơi cư trú của anh P xác định: anh Trần Văn P vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp C, xã V, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nhưng hiện tại anh P vắng mặt nơi cư trú, khi bỏ đi thì không có trình báo hay xin vắng mặt. Từ đó, Tòa án tiến hành niêm yết công khai tất cả các văn bản tố tụng của Tòa án đúng quy định pháp luật nhưng đến nay anh Trần Văn P vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định pháp luật.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình; Bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt; Bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Trần Thị L được ly hôn với anh Trần Văn P;

2. Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao cháu Trần Gia Bảo, sinh ngày 17/01/2007 cho chị L nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Buộc anh Trần Văn P phải cấp dưỡng nuôi cháu Trần Gia Bảo mỗi tháng là 745.000 đồng cho đến khi cháu Bảo đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn anh P có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

3. Về quan hệ tài sản: Chị L không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Ngoài ra đương sự còn phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Trần Thị L khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Trần Văn P và yêu cầu giải quyết về con chung nên căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án thụ lý giải quyết vụ án về “Tranh chấp xin ly hôn và nuôi con” là đúng quy định.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Trần Văn P có nơi đăng ký thường trú tại ấp C, xã V, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[3] Nguyên đơn chị Trần Thị L tuy rằng vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn yêu cầu được xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với chị L. Bị đơn anh Trần Văn P vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh Trần Văn P.

Về nội dung:

[4] Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh P có tổ chức đám cưới với nhau trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường An Khánh, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ vào ngày 21/4/2017 nên quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh P là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Trong quá trình chung sống đến nay, chị L xác định chị và anh P có phát sinh nhiều mâu thuẩn, vợ chồng thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chị L không thể hàn gắn với anh P được nữa. Hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 01 năm cho đến nay. Nay chị L nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh P. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành xác minh được biết giữa chị L và anh P có phát sinh mâu thuẩn, vợ chồng lúc sống chung thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 01 năm cho đến nay. Vì vậy, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chị Trần Thị L được ly hôn với anh Trần Văn P.

[5] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống chị L xác định giữa chị và anh P có 01 người con chung là cháu Trần Gia Bảo, sinh ngày 17/01/2017. Hiện tại cháu Bảo đang sống chung với chị L nên chị L yêu cầu được nuôi con và chị L yêu cầu anh P phải cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Hội đồng xét xử xét thấy, cháu Bảo đang sống cùng chị L và cháu đã có cuộc sống, môi trường ăn, ở, học ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử tiếp tục giao cháu Trần Gia Bảo, sinh ngày 17/01/2017 cho chị L nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh P có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

Xét yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của chị L, Hội đồng xét xử thấy rằng, việc cấp dưỡng nuôi con là trách nhiệm và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Căn cứ vào khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Chị L đang nuôi cháu Bảo và yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi cháu Bảo là phù hợp và chính đáng. Do anh P không cung cấp lời khai của mình cho Tòa án và vắng mặt nơi cư trú nên không thỏa thuận được mức cấp dưỡng nuôi con với chị L. Do đó, cần lấy mức cấp dưỡng là ½ mức lương cơ bản hiện hành là 745.000 đồng (1.490.000đồng/01 tháng). Vì vậy, cần buộc anh Trần Văn P có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Trần Gia Bảo, sinh ngày 17/01/2017 mỗi tháng là 745.000 đồng cho đến khi cháu Bảo đủ 18 tuổi.

[6] Về quan hệ tài sản: Chị L không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Buộc chị Trần Thị L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng; Buộc anh Trần Văn P phải chịu án phí cấp dưỡng là 300.000 đồng.

Về ý kiến phát biểu việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên: Hội đồng xét xử xét thấy việc đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 51; Điều 53; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 110; Điều 116; Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình.

Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị L.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Trần Thị L được ly hôn với anh Trần Văn P.

2/ Về con chung: Tiếp tục giao cháu Trần Gia Bảo, sinh ngày 17/01/2017 cho chị L nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Buộc anh Trần Văn P phải cấp dưỡng nuôi cháu Trần Gia Bảo mỗi tháng là 745.000 đồng cho đến khi cháu Bảo đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn anh P có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

3/ Về tài sản chung: Chị Trần Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4/ Về án phí:

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Trần Thị L phải nộp số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng chị L đã dự nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số: 0003414 ngày 21/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nay chuyển thu toàn bộ số tiền trên thành án phí.

Về án phí cấp dưỡng: Buộc anh Trần Văn P phải nộp số tiền 300.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hồng Dân.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp và cấp trên được quyền kháng nghị bản án này theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2021/HNGĐ-ST ngày 18/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:39/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về