Bản án 39/2021/HNGĐ-ST ngày 10/05/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

 BẢN ÁN 39/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/05/2021 VỀ LY HÔN

 Ngày 10 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lâm Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 288/2020/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2021/QĐXXST – HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2021 của Tòa án Lâm Hà giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Đặng Thị D, sinh năm: 1990.

Địa chỉ: thôn Đ, xã T, huyện M, Thành phố Hà Nội.

Địa chỉ liên lạc: thôn L, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng

2. Bị đơn: anh Nguyễn Văn Th, sinh năm: 1988.

Địa chỉ: thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn anh Nguyễn Văn Th: Ông Phạm Văn Tiến – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lâm Đồng.

Người phiên dịch cho bị đơn anh Nguyễn Văn Th: Bà Nguyễn Trần Minh Thư – Giáo viên Trường Khiếm thính tỉnh Lâm Đồng.

( chị D có đơn xin giải quyết vắng mặt, anh Th, ông Tiến và bà Thư có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và bản tự khai nguyên đơn chị Đặng Thị D trình bày: Năm 2015, chị D và anh Th đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Trong quá trình chung sống không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra cãi vã, nguyên nhân là do anh Th bị câm điếc nên không có sự chia sẻ lẫn nhau dẫn đến vợ chồng bất đồng trong sinh hoạt hàng ngày. Chị cũng đã cố gắng cải thiện tình cảm vợ chồng nhưng không được. Vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2017 đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể tiếp tục nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Th.

Về con chung: chị D xác định có một con chung là Nguyễn Đặng Quốc V, sinh ngày 07/6/2015. Hiện nay con đang ở cùng với anh Th. Khi ly hôn, chị yêu cầu Tòa án giải quyết giao con cho anh Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị xác định không có và không yêu cầu gì. Về nợ chung: Chị xác định không có.

Bị đơn anh Nguyễn Văn Th đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo mở phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp công khai chứng cứ,… nhưng anh Th đều không có văn bản trình bày cụ thể ý kiến của mình gửi cho Tòa án và đều vắng mặt khi Tòa án triệu tập. Qua xác minh người thân của anh Th thì được biết anh Th đều nhận được các văn bản tố tụng do Tòa án tống đạt và biết ngày giờ đến Tòa án làm việc nhưng do anh Th hạn chế về khả năng giao tiếp nên không đến. Đồng thời, người thân của anh Th cũng cho rằng mẫu thuẫn vợ chồng anh Th và chị D phát sinh là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có sự chia sẻ với nhau, hơn nữa khi xảy ra mâu thuẫn chị D lại bỏ về quê sống. Gia đình cũng đã động viên hòa giải rất nhiều nhưng chị D không chịu quay về nên vợ chồng đã sống ly thân gần ba năm nay.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải nhưng khi chị D có mặt thì anh Th vắng mặt, còn khi anh Th có mặt thì chị D lại vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh Th trình bày quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử tôn trọng ý kiến của anh Th về việc đồng ý ly hôn với chị D. Về con chung, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến khả năng giao tiếp của anh Th rất hạn chế nên việc chăm sóc con cần phải có sự hỗ trợ của gia đình. Hơn nữa hiện nay anh Th đang được hưởng chế độ trợ cấp xã hội. Do đó, nếu chị D không đồng ý nuôi con thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét buộc bị D phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con đảm bảo cho anh Th có điều kiện nuôi con.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng cũng như phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo hướng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của chị Đặng Thị D, xử cho chị D và anh Th được ly hôn. Về con chung: giao con là Nguyễn Đặng Quốc V, sinh ngày 07/6/2015 cho anh Nguyễn Văn Th trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục; chị D cấp dưỡng nuôi con 1.000.000đồng/tháng. Về tài sản chung và nợ chung chị D xác định không có và không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết. Chị Đặng Thi D phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận của đương sự cũng như ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Đặng Thị D vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 điều 227; khoản 1 điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị D là phù hợp.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị D và anh Nguyễn Văn Th xây dựng gia đình với nhau năm 2015, trên cơ sở hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn hợp pháp. Cuộc sống chung của vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến cuối năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm và đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Tại phiên tòa, chị D có đơn xin xét xử vắng mặt nhưng tại đơn khởi kiện và bản tự khai chị D đều xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng kéo dài, tình cảm vợ chồng không thể cải thiện được nên chị D giữ nguyên yêu cầu được ly hôn. Còn anh Th cũng xác định không còn tình cảm với chị D và đồng ý ly hôn. Xét thấy, vợ chồng chị D và anh Th phát sinh mẫu thuẫn là do vợ chồng bất đồng ngôn ngữ, thiếu sự sẻ chia thông cảm cho nhau, hơn nữa vợ chồng lại không tin tưởng nhau trong quan hệ tình cảm nên thường xảy ra bất hòa. Do vợ chồng không tìm được biện pháp để cải thiện tình cảm vợ chồng nên đã sống ly thân từ cuối năm 2017 cho đến nay không còn sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Vì vậy, nếu kéo dài tình trạng hôn nhân như hiện nay cũng không mang lại hạnh phúc cho các đương sự do mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cần chấp nhận đơn xin ly hôn của chị D, xử cho chị Đặng Thị D và anh Nguyễn Văn Th được ly hôn là hoàn toàn phù hợp.

[3] Về con chung: Chị Đặng Thị D và anh Nguyễn Văn Th có 01 con chung là Nguyễn Đặng Quốc V, sinh ngày 07/6/2015. Khi ly hôn, chị D đề nghị giao con chung cho anh Th có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và chị D không phải cấp dưỡng nuôi con. Còn anh Th trình bày quan điểm nếu chị D không nuôi thì anh sẽ nuôi nhưng anh yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con từ 1.000.000đồng đến 2.000.000đồng/tháng. Xét thấy, kể từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, con chung vẫn do anh Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và có sự giúp đỡ của ông bà nội trong việc chăm sóc cháu. Hơn nữa, tại đơn khởi kiện ly hôn, bản tự khai và đơn xin giải quyết vắng mặt, chị D đều trình bày quan điểm đề nghị giao con cho anh Th nuôi dưỡng. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy để ổn định tâm sinh lý cho trẻ tránh bị xáo trộn về nơi ăn ở và sinh hoạt, căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình giao con là Nguyễn Đặng Quốc V, sinh ngày 07/6/2015 cho anh Nguyễn Văn Th có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp.

Về việc cấp dưỡng nuôi con, xét thấy anh Th bị câm điếc bẩm sinh hiện đang được hưởng chế độ trợ cấp xã hội, việc nuôi con phải nhờ đến sự giúp đỡ của gia đình. Hơn nữa theo quy định của luật hôn nhân và gia đình thì cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Do đó, để đảm bảo điều kiện cho anh Th chăm sóc con chu đáo, đồng thời cũng nhằm đảm bảo quyền lợi cho trẻ, cần buộc chị Đặng Thị D phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con 1.500.000đồng/tháng là phù hợp. Thời gian cấp dưỡng nuôi con tính từ ngày án có hiệu lực pháp luật trở đi cho đến khi nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt.

[4] Về tài sản chung: Chị D và anh Th xác định không có và không yêu cầu gì nên không đặt ra để xem xét.

[5] Về nợ chung: các đương sự xác định không có nên không xem xét.

[6] Về án phí: Chị D phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn và 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 203; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 235; Điều 266 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84;Điều 110; Điều 116 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử :

1. Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Đặng Thị D, xử cho chị Đặng Thị D và anh Nguyễn Văn Th được ly hôn.

2. Về con chung: giao con là Nguyễn Đặng Quốc V, sinh ngày 07/6/2015 cho anh Nguyễn Văn Th có trách nhiệm trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Đặng Thị D có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con 1.500.000đồng/tháng. Thời gian cấp dưỡng kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật cho đến khi nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của pháp luật.

“Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: chị Đặng Thị D phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn và 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) chị Đặng Thị D đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0007732 ngày 05 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Chị D còn phải nộp 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn Th có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Đặng Thị D có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 39/2021/HNGĐ-ST ngày 10/05/2021 về ly hôn

Số hiệu:39/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về