Bản án 39/2020/HS-ST ngày 31/07/2020 về tội tàng trữ hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ THỌ, TỈNH PHÚ THỌ

 BẢN ÁN 39/2020/HS-ST NGÀY 31/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

 Ngày 31 tháng 7 năm 2020 tại Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2020/TLST - HS, ngày 21 tháng 4 năm 2020. theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2020, theo thông báo mở lại phiên tòa số: 07/TB -TA ngày 09/7/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 12/2020/QĐ - HS ngày 22/7/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ đối với bị cáo:

Họ và tên Lê Quốc H, sinh ngày: 26/10/1982; Giới tính: Nam Nơi ĐKHKTT + Chỗ ở hiện nay: Khu 2, xã T, thị xã P, tỉnh P; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Lê Ngọc H - sinh năm 1958 và Lê Thị T - sinh năm 1960; Anh chị em có 04 người; bị cáo là thứ ba.Vợ Hà Thị T - sinh năm 1984; Bị cáo có 02 con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2016;

Tiền án, tiền sự: Không. Lịch sử bản thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 27/2010/HSST ngày 29/6/2010 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh P xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản . Chấp hành xong hình phạt chính và trách nhiệm bồi thường dân sự cho bị hại vào tháng 10/2013.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/01/2020 đến ngày 23/01/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” tại xã T, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Mạnh T - sinh năm 1992 Trú tại: Khu 2, xã T, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ 50 phút ngày 20/01/2020, tổ công tác Công an thị xã Phú Thọ đang làm nhiệm vụ tại Km65 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai thuộc khu 8, xã Hà Lộc, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ phát hiện Lê Quốc H, sinh năm 1982, trú tại: khu 2, xã T, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ bê 01 hộp cát tông có biểu hiện nghi vấn liên quan đến cất giữ hàng cấm nên tổ công tác yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra phát hiện bên trong hộp cát tông có 04 hộp pháo có đặc điểm mặt hộp pháo đều được dán giấy ni lông màu vàng, dưới dán bìa màu vàng nhạt, xung quanh dán giấy màu đỏ, trên các mặt giấy màu đỏ có in nhiều chữ nước ngoài, kích thước mỗi hộp là 14x14x15cm, trọng lượng 04 hộp pháo là 7,7kg. Tại chỗ H khai nhận:

04 hộp kích thước 14 x 14 x 15 cm là pháo dàn 36 quả, H mua về để sử dụng. Tổ công tác lập biên bản kiểm tra và niêm phong số pháo thu giữ của H theo quy định. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ 200.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu xanh bạc gắn sim số 0395803654 và 01 xe ô tô BKS 19N-5046.

Ngày 21/01/2020, Công an thị xã Phú Thọ đã T hành khám xét khẩn cấp nhà của Lê Quốc H ở khu 2, xã T, thị xã Phú Thọ, quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Ngày 20/01/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã Phú Thọ đã ra quyết định trưng cầu giám định toàn bộ số pháo thu giữ của Lê Quốc H.

Tại bản kết luận giám định số 193/KLGĐ ngày 23/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ kết luận:

04 khối hộp có kích thước 14cmx14cmx15cm, bên ngoài được bọc lớp giấy nhiều màu sắc và có in chữ nước ngoài. Trong có 02 khối hộp ở 02 góc vuông mỗi góc có 01 đoạn dây dẫn màu xanh, 02 khối hộp còn lại ở một góc vuông của mỗi khối hộp có 01 đoạn dây dẫn màu xanh. Bên trong mỗi khối hộp đều có 36 vật trụ tròn vỏ bằng giấy màu nâu, được liên kết với nhau bằng keo và 01 dây kim loại quấn xung quanh, phần dưới của mỗi vật hình trụ tròn có đoạn dây dẫn màu xám kết nối các vật bên cạnh (mẫu gửi giám định) là pháo có đầy đủ tính năng của pháo nổ (có chứ thuốc pháo, khi đốt có gây Tg nổ). Khối lượng của mẫu gửi giám định là 7,7kg” Hoàn trả đối tượng giám định 7,1kg cùng bao gói gửi đến giám định”.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Quốc H khai nhận: Do quen biết một người tên Tuấn nhưng không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể; Khoảng 8 giờ sáng ngày 20/01/2020 Tuấn dùng số điện thoại 0393264316 gọi điện rủ H đi ăn sáng ở khu vực bờ sông Hồng, thị xã Phú Thọ. Trong lúc ngồi ăn H hỏi Tuấn có pháo bán không; Tuấn nói không có nhưng cho H số điện thoại 0364085285 để H liên lạc mua pháo. Khi H gọi vào số điện thoại này thì có một người đàn ông nghe máy, H hỏi mua 04 dàn pháo 36 quả và thỏa thuận với người đàn ông này giá 04 dàn pháo là 2.500.000 đồng, hẹn giao dịch mua bán pháo tại km 65 đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai thuộc khu 8, xã Hà Lộc, thị xã Phú Thọ. Sau đó, H gọi điện cho Lê Mạnh C, sinh năm 1984 ở khu 2, xã T, thị xã Phú Thọ (là anh em họ với H) thông báo về việc mua bán pháo như trên; C có nhờ H mua hộ 04 dàn pháo và hẹn tối về trả tiền. Do không có tiền, H hỏi vay bà Lê Thị T, sinh năm: 1960 ở khu 2, xã T, thị xã Phú Thọ là mẹ đẻ của H số tiền 2.500.000 đồng để mua pháo hộ C; Khi vay tiền H không nói là vay tiền đi mua pháo nên bà T đồng ý. Sau đó, H gọi điện cho Lê Mạnh T, sinh năm 1992 ở khu 2, xã T, thị xã Phú Thọ thuê T lái xe taxi BKS 19N- 5046 đưa H ra km65 đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai để mua pháo nhưng H nói với T là đi gửi tiền cho bạn. Đến điểm hẹn, H đi bộ vào khu bên trong đường Cao tốc đợi, H gọi điện được người bán pháo giảm cho 200.000 đồng để trả tiền xe taxi. Một lúc sau có người đàn ông đội mũ, đeo khẩu trang bước xuống từ xe ô tô loại 04 chỗ H không nhớ biển số xe đưa cho H 01 hộp cát tông chứa pháo; H đưa 2.500.000 đồng, người đàn ông trả lại cho H 200.000 đồng rồi lên xe đi hướng Hà Nội; Khi H bê hộp cát tông đi ra chỗ xe ô tô của T thì bị Công an thị xã Phú Thọ phát hiện, bắt giữ như đã nêu trên.

Kết quả điều tra xác định anh Nguyễn Văn G, sinh năm 1974 trú tại xã H, Thị xã Phú Thọ là chủ thuê bao sim số: 0364085285; chị Nguyễn Hồng N, sinh năm 1994 trú tại tổ 22, L, quận H, thành phố H là chủ thuê bao sim số:

0393264316; Tuy nhiên cả anh Giáp và chị Ngọc đều không thừa nhận có sử dụng các sim số trên; bản thân Lê Quốc H xác nhận không quen biết anh Giáp, chị Ngọc và khẳng định anh Giáp, chị Ngọc không phải là người bán pháo cho H nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý đối với anh Giáp, chị Ngọc.

Về tài sản, đồ vật tạm giữ gồm: 7,1 kg pháo nổ là mẫu vật còn lại sau giám định, 200.000 đồng và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobell kèm thẻ sim số 0395803654 là vật chứng, công cụ để H thực hiện hành vi phạm tội được chuyển theo hồ sơ vụ án; đối với chiếc xe ô tô BKS 19N-5046, kết quả điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp là của anh Lê Mạnh T và chiếc xe trên không liên quan đến hành vi phạm tội. Ngày 23/01/2020, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh T là phù hợp.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng: biên bản kiểm tra, các vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai nhận tội của bị cáo, người chứng kiến, người liên quan, cùng các tài liệu điều tra khác được cơ quan điều tra thu thập trong hồ sơ vụ án.

Bản cáo trạng số: 27/CT-VKSTXPT ngày 20/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Thọ truy tố Lê Quốc H về tội “Tàng trữ hàng cấm” quy định tại điểm c khoản 1 điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa , đại diện Viện kiểm sát nhân dân dân thị xã Phú Thọ vẫn giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố và luận tội, bị cáo không có tranh luận và bào chữa nào khác. Đai diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Thọ đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Quốc H phạm tội “ Tàng trữ hàng cấm”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Quốc H từ 15 đến 18 tháng tù, được khấu trừ thời gian tạm giữ theo quy định của pháp luật. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm c khoản 1Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đề nghị tịch thu cho tiêu hủy 04 khối hộp pháo mặt hộp pháo gián giấy nilon màu vàng, xung quanh gián giấy màu đỏ. Trên các mặt giấy màu đỏ có in nhiều chữ nước ngoài kích thước 14cm x 14cm x 15cm,được niêm phong trong một tH cát tông trên tH cát tông được dán 05 giấy niêm phong vào các mép của tH cát tông các giấy niêm phong đều có 02 con dấu và 04 chữ ký của các thành phần tham gia trong biên bản niêm phong theo quy định của pháp luật.

Đề nghị trả lại cho bị cáo H 200.000 đồng.

Đề nghị tịch thu của bị cáo H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu xanh bạc số IMEI 1: 510081600878964, số IMEI 2: 510082600878962, bán phát mại nộp ngân sách Nhà nước , riêng thẻ sim số 0395803654 tịch thu cho tiêu hủy.

Đề nghị xác nhận cơ quan Điều tra Công an thị xã Phú Thọ đã trả lại cho anh Lê Mạnh T 01 chiếc ô tô BKS 19N – 5046 có nhẵn hiệu DAEWOO, số loại LACETTISE màu đen số khung RLLANF46DAH991501, số máy F16 D36090321 đã qua sử dụng là hợp pháp.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử cho hưởng mức án nhẹ nhất.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà.

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về Tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Phú Thọ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Thọ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Ngày 11/6/2020 TAND thị xã Phú Thọ ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử vào ngày 26/6/2020, đến ngày xét xử bị cáo Lê Quốc H vắng mặt tại phiên tòa có lý do Đa thương tích do tai nạn giao thông (Có xác nhận của bệnh viện Đa khoa thị xã Phú Thọ) đại diện VKSND thị xã Phú Thọ đề nghị hoãn phiên tòa. HĐXX căn cứ vào Điều 290 - BLTTHS thảo luận và ra quyết định hoãn phiên tòa theo quy định của pháp luật.

Ngày 09/7/2020 TAND thị xã Phú Thọ ban hành thông báo mở lại phiên tòa vao ngày 22/7/2020 đến ngày xét xử bị cáo Lê Quốc H vắng mặt tại phiên tòa có lý do bị ốm đang điều trị tại bệnh viện đa khoa thị xã Phú Thọ (Có xác nhận của bệnh viện Đa khoa thị xã Phú Thọ và có biên bản xác minh) đại diện VKSND thị xã Phú Thọ đề nghị hoãn phiên tòa. HĐXX căn cứ vào Điều 290 - BLTTHS thảo luận và ra quyết định hoãn phiên tòa theo quy định của pháp luật và ấn định thời gian địa điểm mở lại phiên tòa vào hồi 7 giờ 30 phút ngày 31/7/2020.

Tại phiên tòa hôm nay ngày 31/7/2020 bị cáo có mặt, nên HĐXX T hành xét xử vụ án theo thủ tục chung của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lê Quốc H đã khai nhận đã có hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với quá trình điều tra, giải quyết vụ án do đó có đủ cơ sở khẳng định:

Khoảng 16 giờ 50 phút ngày 20/01/2020, tại Km 65 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai thuộc khu 8, xã Hà Lộc, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, Lê Quốc H đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 7,7 kg pháo nổ bị Công an thị xã Phú Thọ phát hiện, bắt giữ.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Quốc H đã phạm tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại khoản 1 điều 191 Bộ luật hình sự quy định:

Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) ..

c) Pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam;…” [3]. Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước được pháp luật hình sự bảo vệ, gây bất bình trong nhân dân, làm mất trật tự trị an ở địa phương. Hơn nữa, nó còn là mầm mống gây nên các hậu quả nghiêm trọng khác.

Xét về nhân thân: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, có sức khỏe nhưng không chịu lao động làm ăn lương thiện. Bị cáo đã từng bị xét xử: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 27/2010/HSST ngày 29/6/2010 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để cải tà quy chính, hoàn lương mà tiếp tục phạm tội do đó cần phải có một hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm để giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt và có ích cho xã hội. Tuy nhiên trong qúa trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thật thà khai báo, nên HĐXX cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại điểm s khoản 1điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS nào.

[4].Về hình phạt bổ sung:

Tại khoản 4 điều 191 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề, hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”. Xét thấy bị cáo làm nghề nghiệp tự do, không có tài sản, hiện nay đang ở trên nhà, đất của bố mẹ đẻ nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này, Lê Quốc H khai số lượng pháo nổ trên H mua hộ cho Lê Mạnh Cường. Kết quả điều tra, lấy lời khai, đối chất Cường không thừa nhận việc nhờ H mua pháo nổ, Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý đối với Lê Mạnh Cường là phù hợp.

Đối với anh Lê Mạnh T là người lái xe taxi đưa H đến km 65 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai để H mua bán pháo nổ tuy nhiên T không biết H đi mua pháo nổ do vậy T không đồng phạm với H về hành vi tàng trữ pháo nổ.

Đối với người tên Tuấn và người bán pháo nổ cho H, H không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ.

Đối với bà Lê Thị Tài là người cho H vay 2.500.000 đồng nhưng bà Tài không biết mục đích H vay tiền để mua pháo nổ nên không đề cập xử lý.

[5]. Về vật chứng:

Đối với 04 khối hộp pháo mặt hộp pháo gián giấy nilon màu vàng, xung quanh gián giấy màu đỏ. Trên các mặt giấy màu đỏ có in nhiều chữ nước ngoài kích thước 14cm x 14cm x 15cm,được niêm phong trong một tH cát tôngtrên tH cát tông được dán 05 giấy niêm phong vào các mép của tH cát toongcacs giấy niêm phong đều có 02 con dấu và 04 chữ ký của các thành phần tham gia trong biên bản niêm phongtheo quy định của pháp luật cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 200.000 đồng thu giữ của bị cáo H là khoản tiền giao dịch giữa H và người bán pháo thỏa thuận dân sự với nhau, không liên quan gì đến hành vi tàng trữ hoặc mua bán pháo nên cần trả lại cho bị cáo là phù hợp.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu xanh bạc số IMEI 1: 510081600878964, số IMEI 2: 510082600878962 thu giữ của bị cáo H là dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu bán phát mại nộp ngân sách Nhà nước, riêng thẻ sim số 0395803654 cần tịch thu cho tiêu hủy.

Cần xác nhận cơ quan Điều tra Công an thị xã Phú Thọ đã trả lại cho anh Lê Mạnh T 01 chiếc ô tô BKS 19N – 5046 có nhẵn hiệu DAEWOO, số loại LACETTISE màu đen số khung RLLANF46DAH991501, số máy F16 D36090321 đã qua sử dụng là hợp pháp.

[6].Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Xét đề nghị của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Thọ tại phiên tòa phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 191, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lê Quốc H phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

Xử phạt bị cáo Lê Quốc H 16 (Mười sáu) tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 20/01/2020 đến ngày 23/01/2020. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[2] Về vật chứng:

Áp dụng điểm c khoản 1 khoản 2 Điều 47của Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự .

Tịch thu cho tiêu hủy 04 khối hộp pháo mặt hộp pháo gián giấy nilon màu vàng, xung quanh gián giấy màu đỏ. Trên các mặt giấy màu đỏ có in nhiều chữ nước ngoài kích thước 14cm x 14cm x 15cm,được niêm phong trong một tH cát tôngtrên tH cát tông được dán 05 giấy niêm phong vào các mép của tH cát tông các giấy niêm phong đều có 02 con dấu và 04 chữ ký của các thành phần tham gia trong biên bản niêm phong.

Trả lại cho bị cáo H 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Tịch thu của bị cáo H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu xanh bạc số IMEI 1: 510081600878964, số IMEI 2: 510082600878962 bán phát mại nộp ngân sách Nhà nước.

Tịch thu cho tiêu hủy 01 thẻ sim số 0395803654.

(Các vật chứng có tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự ngày 21/4/2020).

Xác nhận cơ quan Điều tra Công an thị xã Phú Thọ đã trả lại cho anh Lê Mạnh T 01 chiếc ô tô BKS 19N – 5046 có nhẵn hiệu DAEWOO, số loại LACETTISE màu đen số khung RLLANF46DAH991501, số máy F16 D36090321 đã qua sử dụng là hợp pháp.

[3] Về án phí:

Áp dụng khoản 2 điều136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Lê Quốc H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt có quyền kháng cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày giao hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 39/2020/HS-ST ngày 31/07/2020 về tội tàng trữ hàng cấm

Số hiệu:39/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Thọ - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về