Bản án 39/2020/HS-ST ngày 08/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 39/2020/HS-ST NGÀY 08/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 36/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Xuân B: Sinh ngày 11 tháng 5 năm 1995 tại Quảng Bình; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn Hà Môn, xã C, huyện B, tỉnh Quảng Bình; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Kvà bà Bùi Thị D; Gia đình có 05 người con, bị cáo là con út. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ ngày 27 tháng 3 năm 2020, có mặt tại phiên tòa.

2. Phan Anh T: Sinh ngày 14 tháng 5 năm 1996 tại Quảng Bình; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn Tân Nẫm, xã C, huyện B, tỉnh Quảng Bình; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Thanh Đvà bà Hoàng Thị T; Gia đình có 03 người con, bị cáo là con thứ hai. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ ngày 27 tháng 3 năm 2020, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ 30 phút ngày 27/3/2020, Nguyễn Xuân B rủ Phan Anh T mua ma túy về sử dụng, T đồng ý. B dùng điện thoại số 0345.434.934 điện đến số 0938.405.564 hỏi mua 300.000đ ma túy của một người đàn ông thì được người này hẹn đến đường Trường Chinh, Đà Nẵng để giao ma túy nên B điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 51Z5-8980 chở T đi lấy ma túy. Trên đường đi, T nói không có tiền và sẽ góp sợi dây chuyền bạc để mua ma túy nên khi người bán ma túy gọi điện lại cho B nói chỉ còn gói ma túy giá 500.000đ thì B nói sẽ đưa 200.000đ và sợi dây chuyền bạc để mua gói ma túy này, người bán đồng ý.

Khi đến địa điểm hẹn tại trước số nhà 90 đường Trường Chinh thuộc tổ 2, phường Hòa An, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, T tháo sợi dây chuyền bạc đưa cho B rồi ngồi trên xe mô tô đợi, còn B đi bộ vào trong đường kiệt để mua ma túy. Sau khi B đưa tiền, dây chuyền bạc và nhận ma túy cầm trên tay thì phát hiện có tổ tuần tra đi đến nên B chạy đến chỗ T, đồng thời vứt gói ma túy xuống dưới đất thì bị lực lượng công an phát hiện, thu giữ gói ma túy này, niêm phong ký hiệu HA.01; 01 xe mô tô hiệu Sirius biển kiểm soát 51Z5-8980, thu giữ của B chiếc điện thoại hiệu Oppo màu xanh đen, gắn sim số 0345.434.934.

Tại bản kết luận giám định số 110/GĐ-MT ngày 04/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong mẫu HA.01 là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 0,155 gam. Mẫu tinh thể đã sử dụng hết trong quá trình giám định nên chỉ hoàn trả lại vỏ bao gói mẫu.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho B và T đã sử dụng số điện thoại 0938.405.564 để liên lạc với B. Cơ quan CSĐT Công an quận Cẩm Lệ đã ra lệnh thu giữ điện tín đối với số điện thoại trên nhưng chưa có kết quả trả lời. Do đó, tách ra để xử lý khi có cơ sở.

Đối với Nguyễn Xuân B và Phan Anh T đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, tiến hành xét nghiệm dương tính với ma túy nên cơ quan điều tra đã xử phạt hành chính là có cơ sở.

Đối với toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn lại sau giám định, đề nghị tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Oppo, màu xanh đen, gắn sim số 0345.434.934 là điện thoại B dùng để liên lạc mua bán ma túy nên đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với xe mô tô hiệu Sirius biển kiểm soát 51Z5-8980, qua tra cứu không xác định được chủ sở hữu nên cơ quan CSĐT Công an quận Cẩm Lệ tách ra tiếp tục điều tra khi có cơ sở.

Tại bản cáo trạng số 36/CT-VKSCL ngày 26 tháng 6 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã truy tố các bị cáo Nguyễn Xuân B, Phan Anh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa hôm nay giữ nguyên nội dung cáo trạng truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân B mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Phan Anh T mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX xử lý theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Xuân B nói lời nói sau cùng: Xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về hòa nhập cộng đồng.

Bị cáo Phan Anh T nói lời nói sau cùng: Trong thời gian bị tạm giam, bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, bị cáo xn HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về hòa nhập cộng đồng.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đó được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đó thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo và trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa, các bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, các bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Các bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Các bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc các bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của các bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng; kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:

Vào lúc 01 giờ 20 phút, ngày 27/03/2020, tại trước số nhà 90 Trường Chinh, thuộc tổ 02, phường Hòa An, quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng, Nguyễn Xuân B và Phan Anh T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,155 gam chất ma túy loại Methamphetamine để sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích mua bán thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Cẩm Lệ phát hiện bắt quả tang.

Hành vi trên của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

[3] Xét tính chất của hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mặc dù biết rõ tác hại của các chất ma túy đối với cộng đồng, xã hội nhưng các bị cáo vẫn tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm sức khỏe và sự phát triển giống nòi của dân tộc. Trong vụ án này có hai bị cáo nhưng đây chỉ là đồng phạm giản đơn, các bị cáo có vai trò ngang nhau trong việc mua ma túy về để sử dụng. Do đó các bị cáo có lỗi ngang nhau. Xét về nhân thân của các bị cáo thấy rằng các bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhận thức được tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây ra, cần cách ly các bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian dài là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi. Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Do vậy, HĐXX thấy cần giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt trong khi quyết định hình phạt. Đối với người đàn ông bán ma túy cho B và T đã sử dụng số điện thoại 0938.405.564 để liên lạc với B. Cơ quan CSĐT Công an quận Cẩm Lệ đã ra lệnh thu giữ điện tín đối với số điện thoại trên nhưng chưa có kết quả trả lời. Do đó, tách ra để xử lý khi có cơ sở nên HĐXX không đề cập đến.

Đối với xe mô tô hiệu Sirius biển kiểm soát 51Z5-8980, qua tra cứu không xác định được chủ sở hữu nên cơ quan CSĐT Công an quận Cẩm Lệ tách ra tiếp tục điều tra khi có cơ sở nên HĐXX không đề cập đến.

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn lại sau giám định xét thấy đây là chất cấm lưu hành nên cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Oppo, màu xanh đen, gắn sim số 0345.434.934 là điện thoại B dùng để liên lạc mua bán ma túy là công cụ phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Các vật chứng trên hiện nay Chi cục Thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03 tháng 7 năm 2020.

Án phí hình sự sơ thẩm các bị cáo Nguyễn Xuân B và Phan Anh T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự 2015.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân B 12 (Mười hai) tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27 tháng 3 năm 2020. Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự 2015.

- Xử phạt bị cáo Phan Anh T 12 (Mười hai) tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27 tháng 3 năm 2020.

2. Về xử lý vật chứng:

- Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy đối với toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn lại sau giám định.

- Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước đối với chiếc điện thoại di động hiệu Oppo, màu xanh đen, gắn sim số 0345.434.934.

Các vật chứng trên hiện nay Chi cục Thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03 tháng 7 năm 2020.

3. Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Nguyễn Xuân B phải chịu là 200.000đ.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Phan Anh T phải chịu là 200.000đ.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2020/HS-ST ngày 08/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:39/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về