Bản án 39/2020/HSST ngày 03/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM SÁCH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 39/2020/HSST NGÀY 03/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03/9/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 38/2020/HSST ngày 29/7/2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2020/QĐXXST-HS ngày 05/8/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2020/QĐST-HS ngày 18/8/2020, Thông báo thời gian mở phiên tòa số 01 ngày 24/8/2020 đối với bị cáo:

Trần Văn Đ (tên gọi khác Trần Kim Đ), sinh năm 1998:

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu H, thị trấn N, huyện N, tỉnh Hải Dương:

Nghề nghiệp: Lao động tự do;  Trình độ văn hóa: 06/12;  Giới tính: Nam;  Dân tộc: Kinh;   Tôn giáo: Không;   Quốc tịch: Việt Nam:

Con ông Trần Kim S và bà Trần Thị H:

Tiền án: Không.

Tiền sự: Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính cai nghiện bắt buộc số 03/2017/QĐ-TA ngày 02/11/2017, chấp hành xong ngày 15/5/2019.

Nhân thân: Ngày 10/4/2015 bị Công an huyện Nam Sách xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc. Nộp phạt xong ngày 12/4/2015.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/6/2020 đến ngày 22/6/2020 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương.

Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

- Bà Nguyễn Thị S- sinh năm 1963.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện N, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn Đ là đối tượng nghiện ma túy. Chiều ngày 21/6/2020, Đ ngồi uống nước tại quán nước gần nhà nghỉ TL ở thôn Đ, xã Đ, huyện N thì gặp một người phụ nữ tên S1 ở huyện KT mà Đ quen biết ngoài xã hội (Đ không biết rõ họ và địa chỉ). Người phụ nữ này có nhờ Đ mua hộ 01 chiếc bất lửa và mang lên phòng 201 nhà nghỉ TL. Sau đó Đ đã mua bật lửa và mang đến phòng 201 nhà nghỉ TL để đưa cho người phụ nữ này. Khi Đ đưa bật lửa xong và đi ra đến cửa phòng thì người phụ nữ này gọi Đ lại và bảo “chơi không? Chị cho một ít”, Đ hiểu là người này muốn cho Đ ma túy để sử dụng nên Đ đồng ý. Người này đưa cho Đ 01 gói giấy thiếc cuộn tròn bên trong chứa chất bột màu trắng là ma túy tổng hợp (dạng đá). Đ cầm gói ma túy này trong lòng bàn tay trái và đi xuống đến khu vực cửa nhà nghỉ TL thì bị lực lượng công an huyện Nam Sách kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ tang vật vào lúc 17 giờ 25 phút cùng ngày.

Tại Bản kết luận giám định số 289/KLGĐ- PC09 ngày 22/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu giữ của Trần Văn Đ gửi đến giám định khối lượng là 0,231gam là ma túy, loại Methamphetamine, nằm trong danh mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Bản Cáo trạng số 35/CT-VKS-NS ngày 29/7/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương truy tố Trần Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Trần Văn Đ thành khẩn khai nhận như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, xử bị cáo mức án thấp nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách thực hành quyền công tố, trình bày luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn Đ từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 21/6/2020; về hình phạt bổ sung: Không áp dụng; Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 289/KLGĐ- PC09 của phòng PC09 Công an tỉnh Hải Dương bên trong có 0,172g Methamphetamine cùng vỏ bao bì hoàn lại sau giám định. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Trần Văn Đ phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nam Sách, Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo phù hợp nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Vào 17 giờ 25 phút ngày 21/6/2020, tại cửa nhà nghỉ TL thuộc thôn Đ, xã Đ, huyện N, tỉnh Hải Dương, bị cáo Trần Văn Đ có hành vi cất giấu trái phép 0,231 gam ma túy loại Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Sách phát hiện, bắt quả tang.

[3] Hành vi của bị cáo Trần Văn Đ là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự và ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc cất giữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương đối với bị cáo Trần Văn Đ là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy rằng:

Bị cáo Đ không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Đ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Đ có 01 tiền sự theo Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính cai nghiện bắt buộc số 03/2017/QĐ-TA ngày 02/11/2017, chấp hành xong ngày 15/5/2019; cùng với hành vi ngày 10/4/2015 bị Công an huyện Nam Sách xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc, nộp phạt xong ngày 12/4/2015. Tuy đây không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng xác định là dấu hiệu nhân thân xấu khi quyết định hình phạt.

[5] Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải có hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự bị cáo có thể chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Đ nghề nghiệp không ổn định, không có tài sản. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Sách có thu giữ của bị cáo gồm 01 gói giấy thiếc vo tròn chứa 0,231g ma túy loại Methamphetamine. Sau khi giám định, cơ quan giám định hoàn lại 0,172g Methamphetamine cùng vỏ bao bì mẫu vật đựng trong phong bì niêm phong số 289/KLGĐ- PC09 của phòng PC09 Công an tỉnh Hải Dương. Methamphetamine là chất cấm tàng trữ, lưu hành; vỏ bao bì mẫu vật không có giá trị sử dụng. Do vậy cần tịch thu, tiêu hủy theo điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Đối với người phụ nữ Đ khai tên S1 ở huyện KT nhưng không rõ đặc điểm, căn cước nên chưa có căn cứ để xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn Đ (tên gọi khác Trần Kim Đ) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn Đ (tên gọi khác Trần Kim Đ) 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 21/6/2020, tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 289/KLGĐ- PC09 của phòng PC09 Công an tỉnh Hải Dương bên trong có 0,172g Methamphetamine cùng vỏ bao bì hoàn lại sau giám định.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam Sách).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Trần Văn Đ phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Văn Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2020/HSST ngày 03/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:39/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Sách - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về