Bản án 39/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 39/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2020 tại phòng xử án, Trụ sở Toà án nhân dân huyện Krông Pắc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 222/2020/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28a/2020/QĐXX-ST ngày 28 tháng 8 năm 2020 và quyết định hoãn phiên toà số 17/QĐST-HNGĐ ngày 14/9/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Dương Thị M, sinh năm 1992- Có đơn xin xét xử mặt.

Đa chỉ: Thôn T2, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Bị đơn: Anh Phạm Thế A, sinh năm 1987- Vắng mặt.

Đa chỉ: Thôn T1, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai,biên bản không tiến hành hòa giải được và đơn xin xét xử vắng mặt chị Dương Thị M trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị M và anh Phạm Thế A đến với nhau trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán của địa phương và đăng ký kết hôn tại UBND xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 29/3/2013. Sau khi về chung sống thì vợ chồng hạnh phúc được một thời gian, sau đó thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn: Do cuộc sống chung của vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung. Mâu thuẫn vợ chồng thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng hay xẩy ra cãi vã, xô xát nhau dẫn tới đầu năm 2020 chị M đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ sinh sống và vợ chồng đã sống ly thân cho đến nay, không còn quan tâm chăm sóc nhau nữa.

Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị Dương Thị M xin được ly hôn với anh Phạm Thế A.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 người con chung: Phạm Thế T, sinh ngày 20/10/2013 hiện nay cháu T đang được chị M nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục. Sau khi ly hôn chị M có nguyện vọng xin được nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục cháu T, cho tới lúc cháu trưởng thành.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị M yêu cầu anh Phạm Thế A cấp dưỡng tiền nuôi cháu Phạm Thế T 1.500.000 đồng/tháng cho tới lúc cháu tròn 18 tuổi.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Dương Thị M xác định vợ chồng không có tài sản chung và công nợ chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Phạm Thế A không đến tòa làm việc, nên Tòa án không lấy được lời khai bị đơn Phạm Thế A.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và nội dung vụ án:

-Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử thẩm phán chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX, căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 110, Điều 116, Điều 117, Điều 118 Luật hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Dương Thị M được ly hôn với anh Phạm Thế A.

Về con chung: Giao cháu Phạm Thế T; sinh ngày 20/10/2013 cho chị Dương Thị M nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục cho đến khi cháu tròn 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Buộc anh Phạm Thế A phải cấp dưỡng nuôi cháu Phạm Thế T 1.500.000 đồng/tháng, cho tới lúc cháu T tròn 18 tuổi. Phương thức cấp dưỡng hàng tháng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Về tài sản chung và nợ chung: chị Dương Thị M không yêu cầu, nên đề nghị HĐXX không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu đã có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền:

Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ vào đơn khởi kiện của chị Dương Thị M đề ngày 17/6/2020, Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc xác định quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của BLTTDS.

Về thẩm quyền: Tại thời điểm chị Dương Thị M làm đơn khởi kiện, bị đơn anh Phạm Thế A cư trú tại thôn T1, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc áp dụng điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[2] Về chấp hành quy định pháp luật: Sau khi thụ lý vụ án, do không tống đạt trực tiếp được cho anh Phạm Thế A, Toà án đã giao cho người thân thích là ông Phạm K (bố đẻ anh Phạm Thế A), có cùng nơi cư trú với anh Phạm Thế A, đồng thời niêm yết các văn bản tố tụng là đảm bảo việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng theo quy định tại khoản 5 Điều 177, Điều 179 BLTTDS. Tuy nhiên, anh Phạm Thế A không tham gia tố tụng cũng như không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các phiên hoà giải là từ bỏ quyền và không thực hiện nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa lần thứ nhất anh Phạm Thế A vắng mặt, nên HĐXX đã hoãn phiên tòa và tống đạt quyết định hoãn phiên tòa cho anh Phạm Thế A. Tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh Phạm Thế A vắng mặt không có lý do, nguyên đơn chị Dương Thị M có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy HĐXX áp dụng Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, để xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đảm bảo đúng quy định pháp luật.

[4] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị M và anh Phạm Thế A chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện. Có đăng ký kết hôn ngày 29/3/2013 tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống, vợ chồng 01 con chung là cháu Phạm Thế T; sinh ngày 20/10/2013. Sau một thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do quan điểm sống bất đồng, nên anh chị đã sống ly thân từ đầu năm 2020 cho đến nay. Quá trình tham gia tố tụng chị Dương Thị M xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn. Anh Phạm Thế A không có mặt tại Tòa án để trình bày quan điểm của mình.

Kết quả xác minh, chính quyền địa phương cung cấp: Mặc dù chính quyền địa phương không nắm rõ nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị Dương Thị M và anh Phạm Thế A, vì anh chị không khai báo với chính quyền địa phương. Tuy nhiên, chính quyền địa phương xác định chị M và anh Thế A không còn chung sống với nhau, chị M đã đưa con về nhà bố mẹ ruột sinh sống và hai vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2020 cho đến nay.

Tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình quy định:

“Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.”

Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa chị Dương Thị M và anh Phạm Thế A đã đến mức trầm trọng, vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2020 cho tới nay mà không có biện pháp hàn gắn hạnh phúc gia đình, chị Dương Thị M xác định tình cảm không còn và kiên quyết xin ly hôn.

Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị Dương Thị M và anh Phạm Thế A không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận đơn khởi kiện của chị Dương Thị M, cho chị Dương Thị M được ly hôn với anh Phạm Thế A.

Về con chung: Trong quá trình chung sống chị Dương Thị M và anh Phạm Thế A có 1 con chung là cháu Phạm Thế T; sinh ngày 20/10/2013, hiện nay cháu T đang ở với chị M. Chị Dương Thị M có nguyện vọng, sau khi ly hôn xin được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Tuấn cho đến lúc cháu trưởng thành. Đồng thời trong quá trình giải quyết vụ án, anh Phạm Thế A cũng không có mặt để xác định nguyện vọng của anh về việc nuôi dưỡng con chung. Xét thấy nguyện vọng của chị M là chính đáng, đảm bảo cho sự phát triển của con chung, phù hợp với quy định của pháp luật. Vì vậy căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao cháu Phạm Thế T; sinh ngày 20/10/2013 cho chị Dương Thị M nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ tuổi trưởng thành.

Anh Phạm Thế A được quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai có quyền cản trở. Tuy nhiên anh Phạm Thế A không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có quyền thay đổi việc nuôi con chung và cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Dương Thị M yêu cầu anh Phạm Thế A cấp dưỡng tiền nuôi cháu Phạm Thế T 1.500.000 đồng/tháng. HĐXX xét thấy hiện nay anh Phạm Thế A làm nghề thợ xây, tiền công lao động bình quân từ 250.000 đồng đến 300.000 đồng/1 ngày, nên cần buộc anh Phạm Thế A phải cấp dưỡng nuôi cháu Phạm Thế T 1.500.000 đồng/tháng, cho tới lúc cháu Tuấn tròn 18 tuổi, phương thức cấp dưỡng hàng tháng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật là phù hợp.

Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án chị Dương Thị M không yêu cầu, nên HĐXX không đề cập xem xét.

[5] Về án phí: Chị Dương Thị M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và anh Phạm Thế A phải chịu án phí cấp dưỡng tiền nuôi con theo quy định của pháp luật.

Xét thấy quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa là phù hợp, HĐXX cần chấp nhận ý kiến của Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 110, Điều 116, Điều 117, Điều 118 Luật Hôn nhân và Gia đình;

n cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Dương Thị M được ly hôn với anh Phạm Thế A.

Về con chung: Giao cháu Phạm Thế T; sinh ngày 20/10/2013 cho chị Dương Thị M nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục cho đến khi cháu Tuấn tròn 18 tuổi.

Anh Phạm Thế A được quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai có quyền cản trở. Tuy nhiên anh Phạm Thế A không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có quyền thay đổi việc nuôi con chung và cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Buộc anh Phạm Thế A phải cấp dưỡng nuôi cháu Phạm Thế T 1.500.000 đồng/tháng, cho tới lúc cháu Tuấn tròn 18 tuổi.

Phương thức cấp dưỡng hàng tháng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Về tài sản chung và nợ chung: chị Dương Thị M không yêu cầu, nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

Về án phí: Chị Dương Thị M phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2019/0009759 ngày 18/6/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc, tỉnh Đăk Lăk. Anh Phạm Thế A phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng tiền nuôi con.

Nguyên đơn chị Dương Thị M, bị đơn anh Phạm Thế A được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 luật thi hành án dân sự, Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:39/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về