Bản án 39/2020/HNGĐ-ST ngày 22/07/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 39/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 22 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 141/2020/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2020, về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2020/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 39/2020/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: H Mon N, sinh năm: 1989;

Nơi cư trú: thôn Đ K , xã Ea Týh, huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Y T, sinh năm: 1980;

Nơi cư trú: thôn B S, xã Ninh Tây, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03 tháng 3 năm 2020 cùng các lời khai tiếp theo và tại phiên tòa, nguyên đơn bà H Mon N trình bày:

Bà H Mon N và ông Y T tự nguyện kết hôn và đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Ninh Tây, thị xã Ninh Hòa năm 2009. Bà N và ông T có 02 con chung là Y Kh B N, sinh ngày: 2009 và H Kh L N, sinh ngày: 2015. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn vì ông T không lo làm ăn, thường xuyên nhậu nhẹt, gây sự đánh bà N. Từ năm 2018 đến nay, bà N dắt 02 con về nhà cha mẹ tại tỉnh Đắk Lắk sinh sống. Nay bà N xác định không còn tình cảm với ông T nên yêu cầu ly hôn với ông T; yêu cầu được nuôi 2 con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng; không yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản chung, không có nợ chung.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ đối với bị đơn ông Y T để giải quyết vụ án nhưng ông Y T vắng mặt nên Tòa án không xác định được ý kiến của ông T Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát xác định Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký, nguyên đơn đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn Y T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt là từ bỏ quyền và lợi ích của mình.

Về nôi dung, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Y T là bị đơn đã được Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà H Mon N và ông Y T đủ điều kiện kết hôn và tự nguyện đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Ninh Tây, thị xã Ninh Hòa năm 2009, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 22, ngày 14 tháng 5 năm 2009, nên xác định quan hệ hôn nhân giữa bà N và ông T là hợp pháp. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng bà N và ông T hạnh phúc đến năm 2010 phát sinh mâu thuẫn vì ông T không lo làm ăn, không quan tâm đến đời sống kinh tế gia đình, thường xuyên nhậu nhẹt, đánh bà N và mỗi người sống mỗi nơi từ 2018 đến nay. Bà N xác định không còn tình cảm với ông T và cương quyết yêu cầu được ly hôn với ông T. Quá trình giải quyết vụ án, ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để giải quyết việc ly hôn nhưng ông T đều vắng mặt, chứng tỏ ông T không còn quan tâm đến gia đình và cuộc hôn nhân này; điều này phù hợp với xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Ninh Tây “hiện nay N và ông T không sống chung với nhau”. Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định tình trạng hôn nhân giữa bà N và ông T đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Việc bà N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Y T là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên cần chấp nhận yêu cầu của bà N.

[3] Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Bà H Mon N và ông Y T có hai con chung là Y Kh B N, sinh ngày: 2009 và H Kh L N, sinh ngày: 2015. Từ năm 2018 đến nay, bà N là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu; cháu Y Kh B N có nguyện vọng được chung sống với bà N. Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định yêu cầu của bà N về việc nuôi con chung là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình nên chấp nhận yêu cầu của bà N.

[4] Về tài sản chung: Bà H Mon N xác định không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[5] Bị đơn ông Y T mặc dù đã được Tòa án thông báo, triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều không đến Tòa án để trình bày ý kiến về việc khởi kiện của nguyên đơn. Vì vậy, không có cơ sở để giải quyết yêu cầu của ông T.

[6] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ và đúng quy định pháp luật nên cần chấp nhận.

[7] Về án phí: Bà H Mon N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 28, Điều 35, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 264, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn: Bà H Mon N được ly hôn với ông Y T.

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao cháu Y Kh B N, sinh ngày: 2009 và H Kh L N, sinh ngày: 2015 cho H Mon N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Bà N không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Ông Y T được quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết bà H Mon N, ông Y T có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con chung hoặc khi có căn cứ theo điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung.

3. Về tài sản chung: Bà H Mon N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Bà H Mon N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0009346 ngày 10/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được tống đạt hợp lệ.

* Quy định chung: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hánh án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2020/HNGĐ-ST ngày 22/07/2020 về ly hôn

Số hiệu:39/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về