Bản án 39/2020/DS-ST ngày 30/12/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 39/2020/DS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 30/12/2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 121/2020/TLST-DS ngày 26 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 112/2020/QĐXX-ST ngày 14 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Trần Thị X, sinh năm 1965; địa chỉ: thôn T, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

- Bị đơn: Nguyễn Thị N, sinh năm 1972 và ông Nguyễn V, sinh năm 1973; cùng trú tại: thôn T, xã H, huyện H, Tp.Đà Nẵng. Bà N và ông V đều có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 12/10/2020 và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trần Thị X trình bày:

Giữa tôi với bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn V có mối quan hệ quen biết nên ngày 14/6/2017 tôi có cho bà N và ông V mượn số tiền 223.700.000 đồng (Hai trăm hai mươi ba triệu bảy trăm ngàn đồng), bà N và ông V hẹn sẽ trả nợ tôi mỗi tháng 200.000 đồng cho đến khi hết nợ. Ngoài ra, đến ngày 10/4/2019, bà N và ông V tiếp tục mượn tôi số tiền 150.000.000 đồng và hẹn trả cho tôi số tiền trên vào ngày 10/12/2019. Tổng cộng bà N và ông V mượn tôi tổng cộng số tiền là 373.700.000 đồng (Ba trăm bảy mươi ba triệu bảy trăm ngàn đồng). Tuy nhiên, bà N và ông V đã không thực hiện đúng như cam kết, tôi đã nhiều lần liên hệ yêu cầu bà N và ông V trả nợ nhưng bà N và ông V mời trả cho tôi được số tiền 15.000.000 đồng, ngoài ra không trả cho tôi bất cứ khoản tiền nào khác, tôi đã nhiều lần liên hệ để đồi nợ nhưng bà N và ông V chây ỳ không chịu trả và còn cố tình trốn tránh đối với tôi. Nay tôi kính đề nghị Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang buộc bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn V phải trả cho tôi toàn bộ số tiền gốc còn lại là 358.700.000 đồng (Ba trăm năm mươi tám triệu bảy trăm ngàn đồng) và tôi không yêu cầu tính lãi.

Tại các phiên hòa giải cũng như tại phiên tòa, bị đơn bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn V trình bày:

Bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn V chỉ thừa nhận có mượn của bà Trần Thị X số tiền 223.700.000 đồng (Hai trăm hai mươi ba triệu bảy trăm ngàn đồng) để làm ăn, tuy nhiên theo ông V và bà N thì vợ chồng ông bà đã 05 lần trả tiền cho bà X với tổng cộng số tiền là 654.000.000 đồng (Sáu trăm năm mươi bốn triệu đồng), riêng đối với số tiền 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng) là không có thật, đây là bà X nhờ vợ chồng ông V bà N viết giúp để giải quyết việc nội bộ gia đình bà Trần Thị X chứ vợ chồng ông bà không hề vay mượn.

Nguyên đơn bà Trần Thị X ý kiến: không đồng ý với ý kiến của ông V và bà N. Kính đề nghị HĐXX xem xét và buộc bà N và ông V phải trả cho bà một lần toàn bộ số tiền 358.700.000 đồng và không yêu cầu tính lãi.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều đảm bảo và đúng quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Vào các ngày 14/6/2017 và 10/12/2019, giữa bà Trần Thị X và bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn V có phát sinh giao dịch vay mượn tiền, theo giấy tờ thể hiện ông V bà N nợ bà X tổng cộng số tiền là 373.700.000 đồng, bà X xác nhận ông V bà N mới trả 15.000.000 đồng, còn lại 358.700.000 đồng. Việc vợ chồng ông V bà N cho rằng đã 05 lần trả tiền cho bà X với tổng cộng số tiền là 654.000.000 đồng (Sáu trăm năm mươi bốn triệu đồng), riêng đối với số tiền 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng) là không có thật, đây là bà X nhờ vợ chồng ông V bà N viết giúp chứ vợ chồng ông bà không hề vay mượn. Tuy nhiên, ông V bà N không cung cấp được bất kỳ chứng cứ nào để chứng minh cho việc trả nợ của mình cũng như việc ông bà cho rằng số tiền 150.000.000 là chỉ viết giúp. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng điều 463, điều 466, điều 470 của BLDS, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và buộc bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn V phải có nghĩa vụ trả nợ cho bà Trần Thị X số tiền 358.7000.000 đồng (Ba trăm năm mươi tám triệu bảy trăm ngàn đồng).

Tài liệu, chứng cứ của vụ án: Đơn khởi kiện, Giấy nợ ngày 14/6/2017, Giấy nợ ngày 10/12/2019, bản sao Giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu bà X; 01 bản tự khai của bà X; 01 bản tự khai của bà N và ông V; 01 biên bản xác minh của Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà HĐXX nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn bà Trần Thị X khởi kiện bị đơn là bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn V phải trả số tiền 358.700.000 đồng (Ba trăm năm mươi tám triệu bảy trăm ngàn đồng), bị đơn có địa chỉ nơi cư trú tại huyện Hòa Vang. Do vậy, đây là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang theo quy định tại Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thời hiệu khởi kiện: Không có đương sự nào có yêu cầu áp dụng thời hiệu, căn cứ khoản 2 Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự HĐXX không áp dụng quy định về thời hiệu trong vụ án này;

Quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

[2] Về nội dung vụ án:

Vào các ngày 14/6/2017 và 10/12/2019, giữa bà Trần Thị X cùng với bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn V có phát sinh giao dịch vay mượn tiền, theo giấy tờ thể hiện ông V bà N nợ bà X tổng cộng số tiền là 373.700.000 đồng, bà X xác nhận ông V bà N mới trả 15.000.000 đồng, còn lại 358.700.000 đồng, bà X đã nhiều lần đòi nợ nhưng ông V bà N không thực hiện đúng cam kết. Tại phiên tòa hôm nay, bà Trần Thị X yêu cầu bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn V trả số tiền 358.700.000 đồng nợ gốc ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật, bà X không yêu cầu tính lãi.

Tại phiên tòa hôm nay vợ chồng ông V bà N cho rằng đã 05 lần trả tiền cho bà X với tổng cộng số tiền là 654.000.000 đồng (Sáu trăm năm mươi bốn triệu đồng), riêng đối với số tiền 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng) là không có thật, đây là bà X nhờ vợ chồng ông V bà N viết giúp chứ vợ chồng ông bà không hề vay mượn. Tuy nhiên, ông V bà N không cung cấp được bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh cho việc đã trả nợ đối với số tiền đã mượn, đồng thời cũng không chứng minh được việc ông bà N – V viết giấy mượn tiền ngày 10/12/2019 với số tiền 150.000.000 đồng là chỉ viết giúp cho bà Trần Thị X để giải quyết công việc nội bộ gia đình của bà X.

Xét thấy việc vay mượn của các bên đương sự là hoàn toàn tự nguyện, nội dung và hình thức không trái pháp luật nên được pháp luật bảo vệ. Bà X đã thực hiện đúng nghĩa vụ của bên cho vay nhưng bà N và ông V đã không thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ của bên vay như thỏa thuận, vì vậy bà N và ông V đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Do đó, căn cứ Điều 463, 466 và 470 của Bộ luật dân sự, HĐXX chấp nhận yêu khởi kiện của bà Trần Thị X, buộc bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn V phải trả cho bà Trần Thị X số tiền 358.700.000 đồng mà bà N và ông V đã vay mượn của bà X.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn V phải chịu theo quy định của pháp luật là 358.700.000đ x 5%) = 17.935.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 463, 464, 465, 466 và 470 của Bộ luật dân sự; khoản 1 Điều 147, 235, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016 UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị X đối với bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn V về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Tuyên xử:

1. Buộc bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn V có nghĩa vụ trả cho bà Trần Thị X số tiền 358.700.000 đồng (Ba trăm năm mươi tám triệu bảy trăm ngàn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn V phải chịu 17.935.000 đồng (Mười bảy triệu chín trăm ba mươi lăm ngàn đồng). Hoàn trả cho bà Trần Thị X 8.967.500 đồng (Tám triệu chín trăm sáu mươi bảy ngàn năm trăm đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000393 ngày 14/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

3. Án xử công khai sơ thẩm, báo cho các bên đương sự biết có quyền kháng bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 30/12/2020.

4. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 39/2020/DS-ST ngày 30/12/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:39/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà Vang - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về