Bản án 39/2020/DSST ngày 01/07/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 39/2020/DSST NGÀY 01/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức, TP. Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 04/2020/TLST-DSST ngày 03 tháng 01 năm 2020 về: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2020/QĐXX-ST ngày 29 tháng 5 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/QĐST-DS ngày 15/6/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị L, sinh năm 1965.

Nơi cư trú: Đội 4 , TDP Tế Tiêu, thị trấn Đại Nghĩa, huyện Mỹ Đức, TP. Hà Nội.

- Bị đơn: Anh Vũ Văn Th, sinh năm 1977 Đã từng làm việc: Công ty Điện lực Mỹ Đ, huyện Mỹ Đ, TP. Hà N Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tế T, thị trấn Đại Ngh, huyện Mỹ Đ, TP. Hà N.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, các lời khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án có nội dung như sau:

Nguyên đơn trình bày:

Do có quen biết anh Vũ Văn Th, nên bà L đã cho anh Th vay tiền rất nhiều lần, Thành trả đầy đủ rồi lại vay nên ngày 14/7/2017 bà L tiếp tục cho anh Th Vay số tiền 50 triệu đồng thời hạn vay là 10 ngày ( thời hạn trả là 25/7/2017), với lãi suất là 4,5%/tháng, Thành vay sử dụng tiền với mục đích cá nhân, tiếp đến 01/11/2017 bà L nhờ Thành xin việc cho con trai bà L với số tiền là 60 triệu đồng và có làm giấy biên nhận tiền, thời hạn là 03 tháng không xin được việc cho con trai bà L thì phải trả lại số tiền trên cho bà L, tại Tòa án bà L trình bày: Đây là số tiền bà L nhờ anh Th xin việc cho con trai, anh Th xin chuyển giao dịch trên thành khoản vay, hứa trả và xin bà L không đề nghị khởi tố nên bà đã thay đổi và chuyển số tiền xin việc thành số tiền Thành vay, với thời hạn vay 03 tháng tính từ ngày 01/11/2017, lãi suất 4,5%/tháng. Tuy nhiên đã quá hạn trả nợ thời gian dài anh Th không trả được, bà L đã đòi Thành nhiều lần nhưng anh Th mới trả được 15.000.000 đồng được trừ vào khoản vay 60.000.000 đồng. nay bà L có yêu cầu khởi kiện buộc anh Th phải trả số tiền còn nợ gốc của 02 khoản vay là 95 triệu đồng và lãi suất theo thỏa thuận từ ngày vay cho đến khi trả hết nợ.

Về phía bị đơn anh Vũ Văn Th trình bày:

Anh thừa nhận có vay của bà Hoàng Thị L ở Thị trấn Đại Nghĩa, huyện Mỹ Đức, TP. Hà Nội, ba lần vay lần 1 vay ngày 22/5/2017, lần hai vay tháng 7, lần ba vay tháng 11, về thời hạn không có thời hạn trả, về lãi suất trong giấy nợ không ghi mà chỉ thỏa thuận lãi suất bằng miệng là 2.500đồng/triệu/ngày. Anh đã trả bà L tổng số tiền là 65 triệu đồng chẵn còn lãi anh đã mấy lần trả, nhưng không nhớ vì bà L ghi vào trong sổ, tài liệu chứng minh cho việc trả nợ anh không có. Nay bà L yêu cầu anh phải trả số tiền 95 triệu, do làm ăn thua lỗ anh xin bà L cho anh được trả mỗi tháng 3 triệu đồng vào ngày 12 hàng tháng và xin bà L bớt cho anh tổng nợ gốc xuống còn 65 triệu đồng, còn về phần lãi anh xin bà L miễn lãi.

Tại phiên hòa giải ngày 13/5/2020 bị đơn có quan điểm: Thừa nhận việc vay nợ như bà L trình bày, lãi xuất mỗi khoản vay là 4.5%/tháng. Anh đã trả được 15.000.000 đồng tiền gốc và chưa trả được lãi. Nay anh Xin trả nợ gốc cả 02 khoản vay trên là 70 triệu đồng và xin miễn toàn bộ lãi, trong vòng một tháng anh sẽ thanh toán toàn bộ nợ gốc trên nếu hết thời hạn đó anh không trả được thì nhất trí giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của bà L: Nhất trí với phương án trả nợ của anh Th là trong vòng 01 tháng kể từ ngày hòa giải anh sẽ thanh toán trả 70 triệu đồng và không tính lãi, nếu hết thời hạn đó mà không trả thì bà L yêu cầu anh Th phải trả đủ số tiền tạm tính đến ngày 13/5/2020 tổng nợ gốc và nợ lãi là: 255.200.000đồng, trong đó: Nợ gốc: 95.000.000đồng, nợ lãi chuyển sang quá hạn là:

160.200.000đồng.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn có quan điểm: Vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và đề nghị Tòa án buộc anh Vũ Văn Th phải trả tổng số tiền còn nợ là 95.000.000 đồng và lãi suất theo thỏa thuận là 4,5%/tháng tính từ ngày vay cho đến khi trả hết nợ. Trường hợp mức lãi do hai bên thỏa thuận này không phù hợp với quy định của pháp luật thì bà L đề nghị áp dụng mức lãi suát quá hạn theo Bộ luật dân sự hiện hành.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án đã làm đúng quy trình tố tụng, không có vi phạm, đã xác định đúng tư cách của đương sự, giải quyết đúng thời hạn của vụ án, nguyên đơn chấp hành pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng quy định tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các thủ tục, quy trình và thực hiện xét xử công khai khách quan.

Về đường lối giải quyết: Căn cứ Điều 466, 468 BLDS 2015 chấp nhận yêu cầu của bà Hoàng Thị L buộc anh Th phải trả số tiền nợ gốc là 95 triệu đồng chẵn và tiền lãi theo quy định pháp luật kể từ ngày vay cho đến khi thanh toán trả hết nợ.

Anh Th phải chịu áp phí DSST theo quy định

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng. Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Tại phiên tòa anh Th vắng mặt không lý do mặc dù đã được Tòa án thông báo và triệu tâp hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ điều 227 BLTTDS, HĐXX xét xử vắng mặt bị đơn là đúng pháp luật.

Về nội dung yêu cầu khởi kiện:

- Về khoản vay: Anh Vũ Văn Th xác nhận có ký nhận vay nợ bà Hoàng Thị L theo hai giấy vay nợ ngày 14/7/2017 vay số tiền 50 triệu đồng và giấy biên nhận ngày 01/11/2017 số tiền 60 triệu đồng ban đầu là tiền xin việc cho con bà L nhưng sau đó các bên đã thống nhất thỏa thuận khai chuyển khoản tiền này là tiền vay nợ, có lập biên bản, có chữ ký người vay tiền và người nhận tiền, có thời hạn vay, trong giấy không khi ghi mức lãi suất vay, nhưng hai bên đều thừa nhận có thỏa thuận mức lãi suất bằng miệng là 4,5%/tháng. Do vậy xác định việc vay nợ của anh Th ngày 14/7/2017 là có thật và được xác định là giao dịch vay tài sản có kỳ hạn và có lãi. Đối với giao dịch ngày 01/11/2017 giữa anh Th và bà L ban đầu là giao dịch xin việc cho con bà L nhưng sau đó các bên đã thông nhất chuyển thành hợp đồng vay tài sản nên xác định giao dịch ngày 01/11/2017 là giao dịch vay tài sản có kỳ hạn và có lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 470 Bộ luật Dân sự. Nay đến hạn anh Th còn nợ gốc và không trả được lãi là vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay theo quy định của điều 466 BLDS. Bà L có quyền yêu cầu khởi kiện buộc anh Th phải trả các khoản vay cho bà là đúng pháp luật.

Về nợ gốc phải trả: Bà L và anh Th đều xác nhận anh Th có trả cho bà L vào gốc số tiền 15 triệu đồng, Hiện anh Th còn phải trả bà L tổng số tiên nợ gốc của 02 khoản vay là 95 triệu đồng. (Tại phiên tòa bà L xác nhận số tiền 15.000.000 đồng anh Th đã trả được trừ vào khoản tiền vay 60.000.000 đồng).

- Xét lãi xuất và tiền lãi: Bà L và anh Th đều thừa nhận có thỏa thuận về lãi suất bằng miệng cho 02 khoản vay trên là 4,5%/tháng, xét thấy mức lãi suất thỏa thuận này là quá cao so với quy định của pháp luật. Căn cứ theo Điều 468 Bộ luật Dân sự thì các bên có quyền thoả thuận mức lãi suất nhưng không được vượt quá 20% năm của khoản vay. Do vậy chỉ chấp nhận áp dụng mức lãi suất cho các đương sự trong 02 khoản vay trên là 20%/năm.

Anh Th vay các khoản vay trên có thời hạn, khi thời hạn cho vay đã hết anh Th chưa trả được cả gốc và khoản lãi nào nên bà L có yêu cầu được chuyển sang lãi quá hạn và được chấp nhận theo quy định tại khoản 5 điều 466 BLDS. Mức lãi suất quá hạn được áp dụng tối đa không được vượt quá 150% lãi xuất trong hạn do các bên thoả thuận do vậy mức lãi suất được áp dụng tối đa cho bà L là 30%/năm tương đương với 2,5%/tháng. Cụ thể khoản lãi quá hạn của bà L được tính đối với anh Th như sau:

+ Khoản vay ngày 14/7/2017 đến 01/7/2020 là 50.000.000đ x 2.5%/tháng x 35 tháng ( ba Lan nhất trí làm tròn 35 tháng) = 43.750.000 đồng .

+ Khoản vay ngày 01/11/2017 đến 01/7/2020 là 60.000.000đ -15.000.000 = 45.000.000 ( bà L nhất trí tính lãi số tiền gốc 45.000.000 đồng kể từ ngày lập giấy vay 01/11/2017) x 2.5%/tháng x 32 tháng = 36.000.000 đồng.

Tổng nợ lãi quá hạn = 79.750.000 đồng.

Tổng nợ gốc và nợ lãi buộc anh Th phải trả cho bà L là 174.750.000 đồng.

Về án phí: Anh Th phải nộp án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 8.737.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho bà Hoàng Thị L số tiền 2.300.000 đồng (Hai triệu ba trăm nghìn đồng) tiền đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 02597 ngày 02/01/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Đức, TP. Hà Nội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 466, 468, 470 Bộ luật dân sự năm 2015; Khoản 1 điều 147, điều 271, điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị L về việc khởi kiện các “ Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Buộc anh Vũ Văn Th phải trả bà Hoàng Thị L tổng số tiền: 174.750.000 đồng (Một trăm bảy mươi bốn triệu, bảy trăm năm mươi nghìn đồng chẵn) Trong đó: Nợ gốc: 95.000.000đồng (Chín mươi lăm triệu đồng); Nợ lãi: 79.750.000 đồng ( Bảy mươi chín triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng chẵn).

Án phí: Anh Vũ Văn Th phải nộp 8.737.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Hoàng Thị L số tiền 2.300.000 đồng (Hai triệu ba trăm nghìn đồng) tiền đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 02597 ngày 02/01/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Đức, TP. Hà Nội.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan Thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngảy người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án (đối với các khoản tiền mà phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành phải chịu một khoản lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án sơ thẩm hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2020/DSST ngày 01/07/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:39/2020/DSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Đức - Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 01/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về