Bản án 39/2019/HSST ngày 31/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 39/2019/HSST NGÀY 31/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 34/ 2019/TLST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2019/HSST-QĐ ngày 16 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo.

1. Mùa A D, tên gọi khác: Mùa A Th, sinh ngày 18/8/1989, tại xã X, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái. Nơi ĐKNKTT: Bản Y, xã X, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 04/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông: Mùa A Xeng, sinh năm 1967 và bà Cứ Thị Sông, sinh năm 1968. Có vợ là Cứ Thị Vang, sinh năm 1999, bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2018. Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Sùng A Ch, sinh ngày 31/12/1970, tại xã X, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Nơi ĐKNKTT: Bản Y, xã X, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: Không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông Sùng A Củ (đã chết) và bà Sùng Thị Dủ, sinh năm 1940. Có vợ là Sùng Thị Pặng, sinh năm 1971, bị cáo có 04 con, con lớn nhất sinh năm 1992, con nhỏ nhất sinh năm 2006. Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Hờ A C, sinh năm 1975; Địa chỉ: Bản Yà, xã X, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái. Có mặt tại phiên tòa.

Người phiên dịch: Ông Thào A Thình; Địa chỉ: Tiểu khu 3 thị trấn Ít Ong huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho các bị cáo: Bà Cầm Kim Loan, Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

 NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 40 phút ngày 12/01/2019, khi Sùng A Ch đang ở lán ruộng tại bản Y, xã X, huyện Mường La thì có Mùa A D đi xe máy đến hỏi: “Ở đây có chỗ nào bán hồng phiến với hàng trắng không?”, Ch trả lời: “Có”. Lúc đó Ch có sẵn 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) trên người nên đã lên xe máy BKS 21F1-6090 để D chở đi tìm mua ma túy ở bản Phiêng Ái, xã X, huyện Mường La. Khi đi đến khu vực đập thủy điện X thì D dừng xe và lấy ra 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng) có sẵn trong người đưa cho Ch và bảo: “Mua hồng phiến”. Ch nhận lấy số tiền D đưa rồi cả hai đi tiếp, khi đi đến bản Phiêng Ái, xã X, huyện Mường La. Ch bảo D dừng lại để Ch đi vệ sinh, khi đi ra ven đường thì Ch gặp một người đàn ông dân tộc Mông không rõ tên, tuổi, địa chỉ, thấy vậy Ch liền hỏi người đàn ông: “Có hàng bán không?”, người đàn ông trả lời: “Có, lấy bao nhiêu?”, Ch trả lời:“Lấy 150.000đ, 50.000đ lấy hồng phiến,100.000đ lấy heroine”, sau đó Ch lấy ra số tiền 150.000đ đưa cho người đàn ông dân tôc Mông, đồng thời nhận lấy từ người đàn ông dân tộc Mông 01 (một) gói bằng nilon màu xanh bên trong Cha 01 (một) viên nén màu hồng và 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong Cha cục bột màu trắng, rồi cất vào gấu quần bên trái chiếc quần đang mặc trên người và đi lên chỗ D đang chờ. D hỏi: “ Mua được chưa?”, Ch trả lời: “Mua được rồi”. Sau đó cả hai lên xe máy và đi về bản Y, xã X, huyện Mường La, đi được một đoạn thì xe máy bị hỏng nên cả hai đẩy xe máy đến quán sửa xe của anh Giàng A Của, trú tại bản Phiêng Ái, xã X, huyện Mường La để sửa xe, trong lúc cả hai đang ngồi chờ sửa xe, thì bị Công an X, kiểm tra hành chính, Ch đã tự giác lấy ma túy vừa mua được ra giao nộp cho tổ công tác Công an xã X, huyện Mường La và tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tạng.

Vật Chứng thu giữ:

- 01 (một) gói bên ngoài được gói bằng giấy ni lon mâu xanh bên trong Chứa 01 viên mầu hồng và 01 (một) gói bên ngoài được gói bằng giấy ni lon màu trắng bên trong chứa cục bột màu trắng .

- 01 (một) xe mô tô loại xe Win, nhãn hiệu SUFAT, màu sơn đen, BKS: 21F1-6090, số máy 176460; số khung 176460, xe cũ đã qua sử dụng.

Ngày 14/01/2019 tại phòng Kỹ thuật hình sự (KTHS) Công an tỉnh Sơn La, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường La và Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La, Giám định viên phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh và sự có mặt của Ch, D, tiến hành bóc mở niêm phong và cân tịnh vật Chứng. Kết quả: 01 viên nén màu hồng trong túi nilon màu xanh có khối lượng 0,10 gam; lấy hết 0,10 gam làm mẫu giám định, ký hiệu CD; Cục bột màu trắng trong gói nilon màu trắng do Ch giao nộp có khối lượng 0,13 gam, lấy hết 0,13 gam làm mẫu giám định, ký hiệu CD1.

Ngày 14 tháng 01 năm 2018 cơ quan cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an huyện Mường La ra Quyết định trưng cầu giám định ma túy số: 26/QĐCGĐ đối với các mẫu, CD và CD1 có phải là ma túy không, là loại ma túy gì, có trọng lượng là bao nhiêu.

Ngày 18/01/2019 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La ra bản Kết luận số: 238. Kết luận các mẫu giám định ký hiệu: CD là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,10 gam; Mẫu gửi giám định ký hiệu CD1 là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,13 gam. Tổng khối lượng mẫu gửi giám định là 0,23 gam.

Tại bản Cáo trạng số: 288/CT- VKSML ngày 07/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Sùng A Ch về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Truy tố bị cáo Mùa A D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát, giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Mùa A Ch, Mùa A D đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c, i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Sùng A Ch từ 20 đến 26 tháng tù giam. Xử phạt Mùa A D từ 18 đến 24 tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về vậy chứng vụ án: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì công văn của Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín. Mặt trước ghi: vậy chứng vụ: Sùng A Ch, Mùa A D – Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị bắt ngày 12/01/2019 tại X, huyện Mường La – Sơn La. Mặt sau phong bì có 07 dòng chữ ký, 07 dòng họ tên và 02 hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường La tại mép giáp lai phong bì (bên trong đựng vỏ phong bì cũ, giấy gói cũ).

Trả lại 01 (một) chiếc xe máy loại xe WIN, nhãn hiệu SUFAT, màu sơn đen, BKS 21F1 – 6090, số máy 176460; số khung 176460 cho chủ sở hữu là ông Hờ A Chua.

Buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật Ý kiến của người bào chữa cho các bị cáo: Các bị cáo đều có hoàn cảnh khó khăn, thuộc hộ nghèo, dân tộc thiểu số, sống ở vùng đặc biệt khó khăn về kinh tế, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Sau khi phạm tội bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo đã tự nguyện giao nộp số ma túy. Nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, để các bị cáo yên tâm cải tọa và sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Các bị cáo, người bào chữa cho các bị cáo, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo Ch, D, nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bào chữa cho các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa các bị cáo Sùng A Ch và Mùa A D đều khai nhận vào khoảng 21 giờ 50 phút ngày 12/01/2019 các bị cáo đã có hành vi góp tiền đi tìm mua “ Hồng phiến và heroin” của người dân tộc Mông không biết tên tuổi, địa chỉ với mục đích để sử dụng cho bản thân. Cụ thể, bị cáo Mùa A D đã bỏ ra 50.000đ, để nhờ Sùng A Ch mua hộ Hồng phiền, Sùng A Ch đã bỏ ra 100.000đ để mua heroin. Sau khi bị cáo Ch mua được Hồng phiền, heroin, các bị cáo trên đường về thì bị bắt quả tang, thu giữ được 01 viên hồng phiên, có trọng lượng là 0,10 gam và một cục màu trắng là heroin có trọng lượng 0,13 gam.

Xét lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của các bị cáo, vậy chứng thu giữ, biên bản cân tịnh vậy chứng và các Chng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Sùng A Ch, Mua A D, đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c, i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Cáo trạng của Viện kiểm sát huyện Mường La đã truy tố đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt: Các bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là phạm tội, nhưng các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy vẫn cố tình thực hiện, về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương, thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Do vậy, cần xử phạt các bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để trừng trị, giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Xét về vai trò đồng phạm: Sùng A Ch là chủ động đi tìm mua ma túy. Mùa A D với vai trò đồng phạm giúp sức là dùng xe máy chở Ch đi tìm mua ma túy, do vây bị cáo Sùng A Ch đóng vai trò thứ nhất trong vụ án, bị cáo Mùa A D đóng vai trò thứ hai trong vu án. Căn cứ vào Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự để xem xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội của từng bị cáo.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo không có.

Tình tiết giảm nhẹ, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5].Về hình phạt bổ sung: Căn cứ biên bản xác minh tài sản của Cơ quan điều tra, gia đình các bị cáo không có tài sản gì có giá trị. Xét thấy, các bị cáo không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo.

[6]. Về vậy chứng vụ án: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 (một) phong bì công văn của Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín. Mặt trước ghi: vậy chứng vụ: Sùng A Ch, Mùa A D – Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị bắt ngày 12/01/2019 tại X, huyện Mường La – Sơn La. Mặt sau phong bì có 07 dòng chữ ký, 07 dòng họ tên và 02 hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường La tại mép giáp lai phong bì. Đây là tang vật vụ án bị cáo dùng trực tiếp phạm tội, không còn giá trị sử dụng vật thuộc quản lý độc quyền của Nhà nước. Cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe máy loại xe WIN, nhãn hiệu SUFAT, màu sơn đen, BKS 21F1 – 6090, số máy 176460; số khung 176460 bị cáo D dùng để đi mua ma túy, là xe bị cáo mượn của anh Hờ A Chua, bị cáo Mùa A D dùng xe để đi mua ma túy, anh Hờ A Chua không biết. Do đó, cần trả lại chiếc xe cho Hờ A Chua.

Về nguồn gốc ma túy bị cáo Ch khai mua của người đàn ông dân tộc Mông, bị cáo không biết tên tuổi địa chỉ của người đàn ông dân tộc Mông, nên Cơ quan CSĐT không có căn cứ để mở rộng vụ án là có cơ sở. Cần chấp nhận.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định chung.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Sùng A Ch, Mùa A D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Sùng A Ch 20 (hai mươi) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, tạm giữ 14/01/2019 Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Mùa A D 18 (mười tám) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, tạm giữ 14/01/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vậy chứng vụ án: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì công văn của Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín. Mặt trước ghi: vậy chứng vụ: Sùng A Ch, Mùa A D – Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị bắt ngày 12/01/2019 tại X, huyện Mường La – Sơn La. Mặt sau phong bì có 07 dòng chữ ký, 07 dòng họ tên và 02 hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường La tại mép giáp lai phong bì.

Trả lại cho ông Hờ A Chua một chiếc xe máy loại xe WIN, nhãn hiệu SUFAT, màu sơn đen, BKS 21F1 – 6090, số máy 176460; số khung 176460.

(Theo biên bản giao nhận vậy chứng ngày 09/5/2019 giữa Công an huyện Mường La và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường La).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Sùng A Ch, Mùa A D, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hờ A Chua, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án ngày 31/5/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HSST ngày 31/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:39/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về