Bản án 39/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 39/2019/HS-ST NGÀY 23/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 23 tháng 04 năm 2019 tại Hội trường xét xử - Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 18/2019/HSST ngày 26 tháng 2 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Công Th ; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 10/10/1976 tại Gia Bình, Bắc Ninh

Nơi ĐKNKTT: Tổ 32, khu 2B, phường C , thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.Chỗ ở: Tổ 4, khu 13, phường M , thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: Lớp 4/12; Họ tên bố: Nguyễn Công H ; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị L ; Vợ là Nguyễn Thị Th - Sinh năm 1976; Bị cáo có: 02 con, con lớn sinh năm 2000; con nhỏ sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 08/11/2018, hiện đang tạm giam có mặt tại phiên tòa.

*Người bào chữa cho bị cáo: Ông Dương Mạnh Cường – luật sư thuộc Văn phòng luật sư Hưng Ninh - Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

* Những người làm chứng:

Anh Hà Duy Kh, sinh năm 1982, địa chỉ: Tổ 1, khu 13, phường M , thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

Anh Trịnh Văn K, sinh năm 1960, địa chỉ: Tổ 1, khu 3, phường M thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

Anh Nguyễn Đình T, sinh năm 1980, địa chỉ: Tổ 4, khu 13, phường M , thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21 giờ 20 phút ngày 08/11/2018 tại lán tạm của Nguyễn Công Th tại tổ 4 khu 13 phường M g thành phố Cẩm Phả tỉnh Quảng Ninh, tổ công tác thuộc phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Quảng Ninh phối hợp với công an phường M tiến hành kiểm tra bắt quả tang Nguyễn Công Th có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy, thu giữ của Thứ:

-01 túi nilon màu trắng, kẹp dính một đầu, kích thước 1,5x2cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, tại túi quần bên trái của Thứ.

-01 điện thoại do động Nokia, màu xanh; số tiền 3.000.000đồng; 01 cân điện tử; 30 vỏ túi nilon kích thước 1,5x2cm.

Tại bản kết luận giám định số 698/GĐMT ngày 11/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,218gam. Hoàn lại 0,16 gam mẫu vật sau giám định, trong niêm phong số 698/GĐMT.

Quá trình điều tra Nguyễn Công Th khai nhận: Th bắt đầu sử dụng ma túy từ năm 2017. Thông qua quan hệ xã hội, Th quen đối tượng tên Biểu tại khu vực phường Mông Dương và biết Biểu có bán ma túy. Từ khoảng tháng 9/2018, Th đã nhiều lần mua ma túy của Biểu để sử dụng và bán lại cho các đối tượng nghiện để kiếm lời. Th không nhớ các lần cụ thể, chỉ nhớ cuối tháng 9/2018 Th có bán 01 túi ma túy cho đối tượng tên “Huy sáu" tại lán của Th với giá 400.000đồng. Đến ngày 25/10/2018, tại lán của Th , Th tiếp tục mua của Biểu 2.000.000đồng tiền ma túy; ngoài ra Biểu còn cho Thứ 01 cân điện tử và một số túi nilon. Sau đó Thứ chia nhỏ ma túy vào các túi nilon để bán kiếm lời. Cụ thể, vào khoảng ngày 28-29 tháng10/2018, tại lán của Th , Th bán cho Hà Duy Kh 01 túi ma túy đá với giá 300.000đồng. Đến khoảng 11 giờ ngày 05/11/2018, tại lán của Th , Th tiếp tục bán cho Kh 01 túi ma túy với giá 300.000đồng. Tiếp đó đến khoảng 20 giờ ngày 8/11/2018 tại lán của Th , Th bán cho “Bình then’’ 01 túi ma túy với giá 500.000đồng. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, cũng tại lán của Thứ, Thứ bán cho đối tượng tên “Dũng trọc’’ 01 túi ma túy với giá 500.000đồng. Sau đó Thứ còn giữ lại 01 túi ma túy trong túi quần nhằm mục đích ai hỏi mua thì bán, thì bị công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Số tiền 3.000.000đồng bị thu giữ, trong đó có 1.000.000đồng là tiền Th vừa bán ma túy cho “Bình then’’ và “Dũng trọc’’.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Công Th khai nhận bị cáo đã nhiều lần mua ma túy của người tên là Biểu về để sử dụng và bán lại cho người khác để kiếm lời, mua và bán ma túy đều thực hiện tại lán tạm của bị cáo, bị cáo đã bán ma túy cho các đối tượng Hà Duy Kh , “Huy sáu”, “Bình then” và “Dũng Trọc” là bạn xã hội với bị cáo, trong đó bị cáo đã nhiều lần bán ma túy cho Hà Duy Kh và “Bình then”. Cụ thể các lần mua bán ma túy bị cáo không nhớ được hết, nhưng bị cáo nhớ lần gần đây nhất bị cáo mua ma túy của Biểu là ngày 25/10/2018, bị cáo đã mua 2.000.000đồng, ma túy mua được bị cáo chia nhỏ vào các túi nilon, bán với giá từ 300.000đồng đến 500.000đồng/túi. Trong số ma túy này bị cáo đã bán cho Hà Duy Kh 02 lần vào các ngày 28 hoặc 29/10/2018 và ngày 5/11/2018, mỗi lần 01 túi với giá 300.000đồng/túi; Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 8/11/2018 , tại lán tạm của bị cáo, bị cáo đã bán một lần 02 túi ma túy đã cho“Dũng trọc", bị cáo đã nhận của “Dũng trọc" số tiền là 1.000.000đồng, trong đó có 01 tờ mệnh giá 100.000đồng, 02 tờ mệnh giá 200.000đồng và 01 tờ mệnh giá 500.000đồng , sau đó “Dũng trọc" chia cho “Bình then" 01 túi ma túy sau đó đi đâu làm gì bị cáo không biết. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày khi bị cáo đang ngồi nói chuyện với Hà Duy Kh , anh Trịnh Văn K , anh Nguyễn Đình T thì bị phát hiện bắt quả tang hành vi cất giấu trái phép chất ma túy và thu giữ vật chứng, trong đó có 01 cân điện tử là Biểu cho bị cáo để chia ma túy. Túi ma túy bị cáo cất giấu trong người có ai hỏi mua bị cáo sẽ bán, trong số tiền 3.000.000đồng có 1.000.000đồng là tiền bị cáo bán ma túy cho “Dũng trọc".

Hà Duy Kh là người mua ma túy của bị cáo, trong quá trình điều tra có lời khai xác nhận, Kh đã nhiều lần mua ma túy của Th để sử dụng, Kh xác nhận khoảng ngày 28 hoặc 29/10/2018 và ngày 05/11/2018 tại lán của Th , Kh đã mua mỗi lần 01 túi ma túy với giá 300.000đồng/túi. Sau đó Kh mang về nhà sử dụng hết. (Bl 89-91).

Người làm chứng khác trong vụ án là anh Trịnh Văn K và anh Nguyễn Đình T là người chứng kiến công an kiểm tra lán tạm của Nguyễn Công Th đều có lời khai thể hiện nội dung: Khoảng 21 giờ 20 phút ngày 8/11/2018 các anh chứng kiến công an kiểm tra và phát hiện Nguyễn Công Th có hành vi cất giấu trong túi quần bên trái của Th 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng, Th khai nhận đó là ma túy đá của Th . (BL 72,79)

Tài liệu có trong hồ sơ ngoài các kết luận giám định ma túy (BL 11), Biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL 7); Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ (BL 8;15) có nội dung phù hợp lời khai của bị cáo; phù hợp lời khai của người làm chứng; do có mâu thuẫn trong lời khai của bị cáo về việc bán ma túy ngày 8/11/2018, Hội đồng xem xét vật chứng là số tiền 3.000.000đồng thu giữ của bị cáo qua bản ảnh vật chứng (BL 62), bản ảnh thể hiện trong số tiền thu giữ không có loại có mệnh giá 100.000đồng.

Tại bản cáo trạng số 20/KSĐT-HS ngày 25/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố bị cáo Nguyễn Công Th về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.Tại phiên tòa kiểm sát viên trình bày luận téi với đề nghị kết tội bị cáo như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, cụ thể kết luận: Khoảng cuối tháng 10/2018 và ngày 5/11/2018 tại lán tạm của Nguyễn Công Th tại tổ 4, khu 13, phường M , thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Th đã 02 lần bán trái phép chất ma túy cho Hà Duy Kh , mỗi lần 01 túi với giá 300.000đồng/túi. Tiếp đó vào khoảng 20 giờ và 20 giờ 30 phút ngày 08/11/2018 tại lán tạm của Th , Th lần lượt bán trái phép chất ma túy cho các đối tượng có tên là “Bình then” và “Dũng trọc” mỗi lần 01 túi với giá 500.000đồng/túi, đến 21 giờ 20 phút cùng ngày, cũng tại địa chỉ trên, Nguyễn Công Th còn có hành vi tàng trữ 0,218gam (không phảy hai trăm mười tám gam) Methamphetamine mục đích để bán thì bị phát hiện bắt quả tang. Đề nghị áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 7 năm đến 7 năm 6 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 8/11/2018; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và có quan điểm về xử lý vật chứng, trong đó đề nghị tịch thu 1.000.000đồng là tiền bị cáo bán ma túy cho “Bình then” và “Dũng Trọc”, truy thu số tiền 600.000đồng là tiền bán ma túy cho Hà Duy Kh ; tịch thu phát mại chiếc điện thoại thu giữ của bị cáo nộp ngân sách nhà nước.

Bị cáo Nguyễn Công Th không tranh luận với luận tội của kiển sát viên.

Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo: Bị cáo bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, sau đó mới khai ra hành vi bán ma túy cho Hà Duy Kh và các đối tượng khác, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội tự thú” quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo hình phạt từ 4 năm đến 5 năm tù. Về vật chứng đã thu giữ của bị cáo, không đủ căn cứ kết luận chiếc điện thoại di động bị cáo đã dùng vào việc mua bán ma túy, nên đề nghị trả cho bị cáo; do các đối tượng “Bình then” và “Dũng trọc” cơ quan điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ, không xử lý, nên không đủ cơ sở thu của bị cáo số tiền 1.000.000đồng.

Sau khi tranh luận với luật sư bào chữa cho bị cáo, đại diện viện kiểm sát có quan điểm không chấp nhận áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội tự thú” như đề nghị của luật sư; giữ nguyên nội dung cáo trạng, nội dung luận tội đối với bị cáo,

Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo Nguyễn Công Th trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đều khai nhận hành vi 02 lần bán ma túy cho Hà Duy Kh , lời khai này phù hợp lời khai của Hà Duy Kh về thời gian, số lượng ma túy cũng như giá tiền mua bán. Bị cáo khai nhận ngày 8/11/2018 tàng trữ 0,218gam ma túy Methamphetamine mục đích để bán phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, như Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong vật chứng, Kết luận giám định ma túy, Lời khai của người làm chứng, chứng kiến bị cáo bị bắt quả tang.

Đối với nội dung bị cáo đã bán ma túy cho các đối tượng “Bình Then” và “Dũng Trọc” vào ngày 8/11/2018 như luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa, ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác có giá trị chứng minh,vì vậy không đủ căn cứ kết luận nội dung này đối với bị cáo.

Từ phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy đủ căn cứ kết luận: Khoảng cuối tháng 10/2018 và ngày 5/11/2018 tại lán tạm của Nguyễn Công Th tại tổ 4, khu 13, phường M , thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Th đã 02 lần bán trái phép chất ma túy cho Hà Duy Kh , mỗi lần 01 túi với giá 300.000đồng/túi để Kh sử dụng. Tiếp đó khoảng 21 giờ 20 phút ngày 08/11/2018, cũng tại địa chỉ trên, Nguyễn Công Th còn có hành vi tàng trữ 0,218gam (không phảy hai trăm mười tám gam) Methamphetamine mục đích để bán thì bị phát hiện bắt quả tang. Còn đối với nội dung bị cáo khai bị cáo còn bán ma túy cho “Bình then” và “Dũng trọc” , “Huy sáu” không đủ căn cứ kết luận.

Hội đồng xét xử chấp nhận một phần luận tội của kiểm sát viên và kết luận trong bản cáo trạng về hành vi phạm tội của bị cáo, nhưng vẫn đủ căn cứ kết luận:Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự, tội danh có khung hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm; Luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa cũng như bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh, khung hình phạt là có căn cứ; đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp tính chất mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Ma túy là chất gây nghiện làm cho người sử dụng phải lệ thuộc vào nó, ma túy làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, kinh tế của người sử dụng. Vì vậy Nhà nước độc quyền quản lý các chất ma túy cũng như chính sách, pháp luật của nhà nước xử lý nghiêm khắc đối với các tội phạm về ma túy, mục đích để ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn ma túy trong xã hội. Bị cáo là người trưởng thành có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu được tác hại của ma tuý đối với xã hội và sự nghiêm cấm của pháp luật đối với hành vi mua bán trái phép chất ma tuý nhưng do ý thức chấp hành pháp luật kém, bị cáo vẫn cố tình phạm tội và đã phạm tội nhiều lần. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay cho người nghiện khác có ma túy để sử dụng, làm gia tăng tệ nạn ma túy tại địa phương, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm lớn cho xã hội, Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian dài tương xứng tính chất nguy hiểm của hành vi bị cáo đã thực hiện để giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo bị bắt quả tang hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, sau đó đã khai báo mục đích tàng trữ để bán cũng như khai báo hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho Hà Duy Kh , việc bị cáo khai báo về nội dung này là biết hành vi phạm tội của mình không thể che dấu được, nên đã thành khẩn khai báo sự thật, vì vậy bị cáo không được áp dụng tình tiết “người phạm tội tự thú” như quan điểm của luật sư, mà được áp dụng tình tiết “ người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”; bố bị cáo có thời gian là dân công hỏa tuyến, xác định là người có công với cách mạng; nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, xem xét đáng kể việc bị cáo thành khẩn khai báo, xử phạt bị cáo mức đầu khung hình phạt, để bị cáo thấy sự khoan hồng của pháp luật;

[5] Về vật chứng: Số ma túy hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy; 01 cân điện tử và 30 vỏ túi nilon kích thước 1,5x2cm không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Do không đủ căn cứ kết luận bị cáo đã bán ma túy cho “Bình Then” và “Dũng trọc” vì vậy không đủ căn cứ tịch thu số tiền 1.000.000đồng bị cáo khai bán ma túy cho 02 đối tượng này; Đủ căn cứ xác định bị cáo đã nhận của Hà Duy Kh 02 lần với tổng số tiền 600.000đồng là tiền bị cáo đã bán ma túy cho Kh , vì vậy truy thu số tiền này trong số tiền 3.000.000đồng thu giữ của bị cáo để nộp ngân sách nhà nước, trả lại cho bị cáo 2.400.000đồng. 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, đã qua sử dụng, xác định không đủ căn cứ kết luận có liên quan đến hành vi phạm tội nên trả cho bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Đối với Hà Duy Kh có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an thành phố Cẩm Phả đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp, không đề cập giải quyết.

Đối với các đối tượng “Huy sáu”, “Bình Then” và “Dũng trọc” là người mua ma túy của bị cáo, quá trình điều tra không xác định lai lịch địa chỉ, nên không đề cập xử lý.

Đối với đối tượng tên là Biểu, Th khai là người bán ma túy cho Th, quá trình điều tra không xác định lai lịch địa chỉ, nên không có căn cứ xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251 ; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Công Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Công Th 7 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 08/11/2018.

Áp dụng điểm a,b,c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a,b,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

-Tịch thu tiêu hủy : Số mẫu vật hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 698/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; 30 (ba mươi) vỏ túi nilon kích thước (1,5x2)cm; 01 cân điện tử đã qua sử dụng.

-Truy thu của bị cáo số tiền 600.000đồng (sáu trăm nghìn đổng) nộp ngân sách nhà nước.

-Trả lại cho bị cáo: số tiền 2.400.000đồng (hai triệu bốn trăm nghìn đồng) và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, model: TA-1034, số IMEI 1: 354493095570155, số IMEI 2: 354495090570155 kèm 02 sim và 01 pin đã qua sử dụng.

Hiện trạng toàn bộ vật chứng và tài sản theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 57/BB-THA ngày 13/3/2019 của cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Nguyễn Công Th phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án/.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:39/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về