Bản án 39/2019/HS-ST ngày 20/03/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 39/2019/HS-ST NGÀY 20/03/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày 20 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 26/2019/HSST ngày 15-02-2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2019/QĐXXST- HS ngày 01 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Trung K, sinh năm: 1994. Tên thường gọi: BaKe. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chổ ở hiện nay: số 36/9B đường N T T, phường V B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang. Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Trung Ch và bà Phạm Thị V; Vợ: Nguyễn Thị Thanh Th.

- Tiền án: Ngày 18-5-2016 bị Tòa án nhân dân thành phố G xử phạt 02 năm 06 tháng từ về tội: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999, đến ngày 03-02-2018 chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích.

- Tiền sự: Ngày 26-10-2015 bị Công an phường V B thành phố G xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác, chưa đóng phạt xong, chưa xóa tiền sự.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 18-10-2018, hiện đang tạm giam, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Ông Lê Văn H, sinh năm: 1959 (vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố K L, thị trấn G R, tỉnh Kiên Giang.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: chị Nguyễn Thị Thanh Th, sinh năm: 1984 (vắng mặt). Địa chỉ: 151/8 đường Tr H Đ, phường V Th V, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

Người làm chứng: 1. Anh Tống Văn Ph, sinh năm 1976 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp B Th, xã B Th, huyện Th S, tỉnh An Giang.

2. Anh Lê Minh C, sinh năm: 2000 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp B Th, xã B Th, huyện Th S, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Trung K là người có 01 tiền án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích và nghiện ma túy. Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 18-10-2018 do muốn có tiền tiêu xài và sử dụng ma túy, K mượn xe mô tô nhãn hiệu SYM, loại Atila mà trắng – xám, biển số 68S1-019.22 của vợ là Nguyễn Thị Thanh Th đi tìm tài sản để cướp giật. Đến khoảng 9 giờ cùng ngày K chạy đến đường Lâm Quang Ky thuộc phường Vĩnh Lạc hướng về phường An Hòa thì K phát hiện ông Lê Văn H đang đi bộ bán vé số dạo trên đường theo hướng ngược lại, K nảy sinh ý định chiếm đoạt vé số cua ông H bán lấy tiền tiêu xài. K quay xe lại và đến vị trí của ông H, K nói dối ông H là mẹ K cho gạo và kêu ông H lên xe để K chở về nhà nhận gạo, ông H tưởng thật nên lên xe. K chở ông H đến trước nhà số 63 đường Bế Văn Đàn, khu phố 5, phường Vĩnh Lạc K dừng xe lại và kêu ông H xuống xe. Ông H xuống xe và đứng trước đầu xe của K còn K vẫn ngồi trên xe, K nói với ông H chờ mẹ K về cho gạo. K hỏi ông H có vé số số sau cùng 49 không để mẹ K mua, ông H nói còn 05 tờ. K giả vờ gọi điện thoại cho mẹ K và nói có 05 tờ vé số đuối 49 có mua không và tắt máy. K kêu ông H đưa hết xấp vé số cho K, ông H đưa K 112 tờ vé số vé số kiến thiết An Giang, mỗi tờ mệnh giá 10.000 đồng mở thưởng ngày 18-10-2018. Lấy được vé số K nổ máy xe và kêu ông H tránh ra đầu xe để K chạy xe đậu trên lề đường, ông H vừa tránh ra thì K tăng ga và cầm theo xấp vé số quay đầu xe nhanh chóng tẩu thoát về hướng G, ông H liền chạy bộ đuổi theo và tri hô “cướp, cướp”, liền lúc này anh Tống Văn Ph đang làm thợ mộc tại số 53 Bế Văn Đàn nghe ông H tri hô nên kêu em vợ là Lê Minh C dùng xe mô tô chở đuổi theo K được khoảng 70m thì chặn được đầu xe K và báo công an phường Vĩnh Lạc giải quyết. Trong khi chờ công an hường Vĩnh Lạc thì người dân xung quanh đến mua hết 51 tờ vé số, khi công an đến ông H chỉ giao nộp được 39 tờ vé số và Công an phường Vĩnh Lạc đã lập biên bản phạm tội quả tang đối với Phạm Trung K. Ngoài ra, khi bắt quả tang Công an phường Vĩnh Lạc thu giữ trong túi quần của K tổng cộng 85 tờ vé số kiến thiết An Giang và Bình Thuận mỗi tờ mệnh giá 10.000 đồng, mở thưởng ngày 18-10-2018 (K khai vé số này do K mua của những người bán vé số ven đường vào ngày 17-10-2018, không xác định tên thật, địa chỉ). Ngày 24-10-2018 K bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố G khởi tố và tạm giam để điều tra.

Vật chứng thu giữ:

Thu giữ của K 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM số loại Atila màu trắng – xám, biển số 68S1 – 019.22 (Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố G đã giao trả cho chị Nguyễn Thị Thanh Th BL 53). Thu giữ trên người của K 85 tờ vé số kiến thiết đài An Giang và Bình thuận, mỗi tờ mệnh giá 10.000 đồng, mở thưởng ngày 18-10-2018 (Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố G đã giao trả lại K BL 54);

Ông Lê Văn H giao nộp 39 tờ vé số kiến thiết tỉnh An Giang, mỗi tờ mệnh giá 10.000 đồng, mở thưởng ngày 18-10-2018, trong đó có 05 tờ số 902294; 09 tờ số 912703; 04 tờ số 502222; 05 tờ số 602222; 03 tờ số 628031; 03 tờ số 533204; 01 tờ số 633204; 06 tờ số 633240; 01 tờ số 533240; 02 tờ số 612713 (Cơ quan điều tra Công an thành phố G đã giao trả ông H Bl 52).

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là ông Nguyễn Văn H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác.

Từ các tình tiết nêu trên, tại bản Cáo trạng số 35/CT - VKSTPRG ngày 14-02-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G đã truy tố bị cáo Phạm Trung K về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Phạm Trung K phạm tội “Cướp giật tài sản”, theo khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự và đề nghị áp dụng tình tiết tăng năng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 1 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Về vật chứng đề nghị đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đúng quy định pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Trung K khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến tranh luận với vị đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo; người bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Lời nhận tội của bị cáo đã phù hợp với nội dung Cáo trạng, kết luận điều tra, lời khai của bị hại, của người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó khẳng định: Vào khoảng 09 giờ ngày 18-10-2018 trên đoạn đường trước nhà số 63 Bế Văn Đàn, khu phố 5, phường Vĩnh Lạc, thành phố G bị cáo Phạm Trung K đã dùng thủ đoạn gian dối để tiếp cận người bán vé số là ông Nguyễn Văn H và xấp vé số ông H đang đi bán. Khi bị hại đưa xấp vé số cho bị cáo để bị cáo lựa vé mua, lúc này ông H vẫn còn đứng trước đầu xe của bị cáo và vẫn còn quản lý tài sản, ngay khi bị hại bước lên lề đường bị cáo đã nhanh chóng chiếm đoạt 95 tờ vé số kiến thiết tỉnh An Giang, mỗi tờ mệnh giá 10.000 đồng, mở thưởng vào ngày 18-10-2018, tổng giá trị 950.000 đồng của bị hại rồi rồ ga xe máy chạy tẩu thoát. Hành vi này của bị cáo đã phạm vào tội cướp giật tài sản theo khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, truy tố bị cáo theo các điều khoản như trên của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người khác, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi cướp giật tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị, nhưng vì muốn có tiền mua ma túy sử dụng cùng với ý thức xem thường phạm luật nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo có nhân thân xấu là người nghiện ma túy và đã từng bị Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh K Giang kết án về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục thực hiện hành vi cướp giật tài sản. Do đó, cần quyết định một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo bị cáo, qua đó đảm bảo tính phòng ngừa chung.

Trong vụ án này bị cáo bị áp dụng 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xét các tình tiết: tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi và trả lại cho chủ sở hữu nên chưa gây thiệt hại, tài sản chiếm đoạt có giá trị không lớn, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo do đó cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét khi quyết định mức hình phạt.

[4] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét bị cáo hiện đang bị tạm giam, không có nghề nghiệp và không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố G đã xử lý đúng theo quy định tại Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự nên Hội đồng xét xử miễn xem xét.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30-12-2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Trung K phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 171; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30-12-2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên bố bị cáo Phạm Trung K phạm tội “Cướp giật tài sản” theo khoản  Điều 171 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Trung K 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 18-10-2018.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Phạm Trung K phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 20-3-2019). Riêng những người vắng mặt thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HS-ST ngày 20/03/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:39/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về