Bản án 39/2019/HS-ST ngày 19/06/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 39/2019/HS-ST NGÀY 19/06/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 30/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2019 và Thông báo thay đổi thời gian xét xử số 40/2019/TB-HS ngày 29/5/2019 đối với các bị cáo:

- Nguyễn Trọng H (tên thường gọi: H 6 ngón), sinh ngày 11 tháng 9 năm 2003, nơi sinh: tỉnh Đồng Nai (đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 15 tuổi 02 tháng 23 ngày); nơi cư trú: Số nhà 293/28A, Khu phố N, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tận H, sinh năm: 1974 (còn sống) và bà Lý Thị Kim T, sinh năm: 1984 (còn sống); bị cáo là con duy nhất trong gia đình; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 05/12/2018 theo các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Biên Hòa trong một vụ án khác. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố Biên Hòa theo Quyết định tạm giam số 386/2019/HSST-QĐTG ngày 13/6/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (có mặt).

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Trọng H là ông Nguyễn Tận H, sinh năm: 1974, nơi cư trú: Số nhà 9/5, Khu phố H, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, nghề nghiệp: Công nhân, là bố của bị cáo Nguyễn Trọng H (có mặt).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo Nguyễn Trọng H là Ông Nguyễn Minh – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đồng Nai (có mặt).

- Phạm Trọng N, sinh ngày 10 tháng 11 năm 2002, nơi sinh: tỉnh Đồng Nai (đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 16 tuổi 24 ngày); nơi cư trú: Số nhà 235/93, Khu phố H, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn V, sinh năm: 1978 (đã chết) và bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1974 (còn sống); gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Xấu, ngày 03/3/2018, bị Trưởng Công an phường Tân Phong, thành phố Biên Hòa ban hành Quyết định số 11/QĐ-VPHC xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi trộm cắp tài sản; Ngày 12/3/2018, bị Chủ tịch UBND phường Tân Hiệp, thành phố Biên Hòa ban hành Quyết định số 129/QĐ-UBND xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi trộm cắp tài sản (đã được xóa xử phạt vi phạm hành chính); Bị cáo bị tạm giam từ ngày 05/12/2018 theo các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Biên Hòa trong một vụ án khác. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa theo Quyết định tạm giam số 388/2019/HSST-QĐTG ngày 13/6/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (có mặt).

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Phạm Trọng N là bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1974, nơi cư trú: Số nhà 235/93, Khu phố H, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, nghề nghiệp: Công nhân, là mẹ của bị cáo Phạm Trọng N (có mặt).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo Phạm Trọng N là Ông Nguyễn Doãn Nhương – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đồng Nai (có mặt).

- Bị hại: Chị Lê Quý Đ, sinh năm: 1983 (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: Ấp N, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Ông Trần Gia S - Trưởng Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện Vĩnh Cửu;

+ Nguyễn Trần Phước L – Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Vĩnh Cửu;

+ Ông Phan Thanh Đ - Chuyên viên Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện Vĩnh Cửu;

+ Ông Trương Tấn L – Chuyên viên Phòng Kinh tế - Hạ tầng huyện Vĩnh Cửu;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Trọng H và Phạm Trọng N là những đối tượng không có nghề nghiệp ổn định, đã thuê nhà trọ tại xã B, huyện V để sống. Khoảng 6 giờ 15 phút ngày 04/12/2018, H rủ N đi cướp giật tài sản của người đi đường để lấy tiền tiêu xài thì N đồng ý. N điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave α biển số 60F3-071.42 chở H lưu thông trên đường 768 hướng xã B đi xã T, huyện V để tìm người sơ hở thì giật tài sản. N và H lưu thông đến Ấp N, xã T, huyện V thì phát hiện chị Lê Quý Đ, sinh năm 1983 điều khiển xe đạp đi ngược chiều, trên tay lái có treo một túi ni lông. H kêu N quay xe lại. N điều khiển xe quay lại và sau đó áp sát xe mô tô với xe đạp, H ngồi sau dùng tay giật túi ni lông trên tay lái xe đạp của chị Đ. H và N bỏ chạy đến xã T, huyện V, kiểm tra bên trong túi ni lông có 02 tờ 500.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu trắng và một số giấy tờ, đi đến cầu ấp T, xã T, H vứt túi ni lông xuống sông. Sau đó H điều khiển xe mô tô chở N đến Cửa hàng điện thoại của anh Ngô Tiến T, sinh năm 1981 bán được 1.200.000 đồng. Số tiền 2.200.000 đồng cướp giật được N và H đã chia nhau mỗi người 1.100.000 đồng dùng chơi game và tiêu xài cá nhân hết.

* Tại Bản kết luận định giá tài sản số 150/KL-ĐGTS ngày 20/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Vĩnh Cửu kết luận điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu trắng trị giá 1.500.000 đồng.

* Vật chứng của vụ án:

- Điện thoại Samsung J7: Ngày 04/12/2018 anh Ngô Tiến T mua của hai thanh niên không rõ tên, khi mua anh T không hỏi về nguồn gốc điện thoại, anh T đã bán cho khách hàng không rõ địa chỉ nên không thu hồi được.

- Túi ni lông: Hiếu vứt xuống sông không thu hồi được.

- Xe mô tô Honda Wave α biển số 60F3-071.42: Do bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1974 đứng tên. Bà L không biết con ruột là Phạm Trọng N mượn xe để làm phương tiện phạm tội. Công an thành phố Biên Hòa thu giữ trong vụ án khác đã trả lại cho bà L.

* Trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Tận H là bố ruột của bị cáo Nguyễn Trọng H và bà Nguyễn Thị L là mẹ ruột của Phạm Trọng N mỗi người đã bồi thường cho chị Lê Quý Đ số tiền 1.500.000 đồng. Chị Đ có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

* Bản cáo trạng số 28/CT-VKSVC ngày 22/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu đã truy tố Nguyễn Trọng H và Phạm Trọng N về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Trọng H và Phạm Trọng N đã thừa nhận:

Khoảng 6 giờ 15 phút ngày 04/12/2018 tại Ấp N, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai, Phạm Trọng N điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave α biển số 60F3-071.42 chở Nguyễn Trọng H, H ngồi sau cướp giật 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 và 1.000.000 đồng của chị Lê Quý Đ, gây tổng thiệt hại là 2.500.000 đồng.

Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Trọng H và Phạm Trọng N về tội “Cướp giật tài sản”.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt các bị cáo:

- Nguyễn Trọng H mức án từ 20 tháng tù đến 24 tháng tù;

- Phạm Trọng N mức án từ 16 tháng tù đến 20 tháng tù;

* Ý kiến tranh luận của người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trọng H: Về tội danh, thống nhất với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu đã truy tố. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo H là người chưa thành niên nên có nhận thức chưa đầy đủ, thiếu sự dạy dỗ của gia đình dẫn đến phạm tội; trong quá trình tố tụng đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho bị hại; được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và chương XII của Bộ luật Hình sự năm 2015. Đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án từ 10 tháng đến 12 tháng tù.

* Ý kiến tranh luận của bị cáo Nguyễn Trọng H: Thống nhất với lời bào chữa của người bào chữa, bị cáo xin lỗi gia đình và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

* Ý kiến tranh luận của người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Trọng H: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

* Ý kiến tranh luận của người bào chữa cho bị cáo Phạm Trọng N: Về tội danh, thống nhất với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu đã truy tố. Khi quyết định hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo N là người chưa thành niên nên có nhận thức chưa đầy đủ, thiếu kinh nghiệm sống, chưa chín chắn, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bố mất sớm, thiếu sự dạy bảo của bố mẹ; trong quá trình tố tụng đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho bị hại; được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, ông ngoại của bị cáo là Nguyễn Văn Đ có công với cách mạng là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và chương XII của Bộ luật Hình sự năm 2015 nên đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

* Ý kiến tranh luận của bị cáo Phạm Trọng N: Thống nhất với lời bào chữa của người bào chữa, bị cáo xin lỗi gia đình và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

* Ý kiến tranh luận của người đại diện hợp pháp của bị cáo Phạm Trọng N: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

* Bị cáo Nguyễn Trọng H nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm đoàn tụ với gia đình.

* Bị cáo Nguyễn Trọng H nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, các bị cáo, người bào chữa, người làm chứng, người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Trọng H, Phạm Trọng N đã khai và thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

[3]. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, Bản Kết luận định giá tài sản và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, bị cáo Nguyễn Trọng H và Phạm Trọng N đã phạm tội “Cướp giật tài sản” với tình tiết định khung tăng nặng “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai truy tố.

[4]. Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Trọng H và Phạm Trọng N là rất nghiêm trọng, nguy hiểm rất lớn cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; gây bất bình cho bị hại và quần chúng nhân dân, gây mất an ninh trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo tuy là người chưa thành niên nhưng đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, biết hoặc phải biết được việc dùng xe mô tô giật tài sản của người khác rồi nhanh chóng tẩu thoát nhằm chiếm đoạt là vi phạm pháp luật nhưng vì để có tiền chơi game và tiêu xài cá nhân nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra.

[5]. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét:

- Về vai trò của từng bị cáo: Đây là vụ án thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Nguyễn Trọng H tuy là người nhỏ tuổi hơn nhưng là người khởi xướng, rủ rê bị cáo N và cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội nên tính chất nguy hiểm của bị cáo H cao hơn bị cáo N.

- Về nhân thân của các bị cáo:

+ Bị cáo Nguyễn Trọng H: Có nhân thân tốt thể hiện tại thời điểm phạm tội chưa có tiền án, tiền sự.

+ Bị cáo Phạm Trọng N: Tại thời điểm phạm tội, bị cáo có nhân thân xấu thể hiện việc đã có 02 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản: Ngày 03/3/2018, bị Trưởng Công an phường Tân Phong, thành phố Biên Hòa ban hành Quyết định số 11/QĐ- VPHC xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi trộm cắp tài sản; Ngày 12/3/2018, bị Chủ tịch UBND phường Tân Hiệp, thành phố Biên Hòa ban hành Quyết định số 129/QĐ-UBND xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi trộm cắp tài sản (đã được xóa xử phạt vi phạm hành chính);

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

+ Bị cáo Nguyễn Trọng H: Khi phạm tội bị cáo là người chưa thành niên; trong quá trình tố tụng, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt nên được áp dụng các quy định tại Chương XII và được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

+ Bị cáo Phạm Trọng N: Khi phạm tội bị cáo là người chưa thành niên, trong quá trình tố tụng, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo có ông ngoại là Nguyễn Văn Đ được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất nên được áp dụng các quy định tại Chương XII và được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

- Về tình tiết tăng nặng:

+ Bị cáo Nguyễn Trọng H: Không có tình tiết tăng nặng.

+ Bị cáo Phạm Trọng N: Không có tình tiết tăng nặng.

Từ đó Hội đồng xét xử căn cứ quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[6]. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017)

- Buộc bị cáo Nguyễn Trọng H và Phạm Trọng N mỗi người phải nộp sung ngân sách nhà nước số tiền 1.100.000 đồng thu lợi bất chính.

- Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Xe mô tô hiệu Honda Wave α biển số 60F3 – 071.42 các bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội là của bà Nguyễn Thị L mẹ bị cáo N. N mượn xe bà L xe để sử dụng nhưng N đã dùng làm phương tiện để cướp giật tài sản. Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho bà L nên không xem xét.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Lê Quý Đ đã được gia đình bị cáo bồi thường thiệt hại về tài sản bị chiếm đoạt mỗi người 1.500.000 đồng. Chị Đ không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[7]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 22, điểm a, f khoản 1 Điều 23, Điều 47 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội và tiểu mục 1 mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, mỗi bị cáo Nguyễn Trọng H và Phạm Trọng N phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[8]. Anh Ngô Tiến T không xác định được người bán điện thoại và điện thoại anh mua đã bán cho khách nên không thu hồi được, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu không truy tố nên không xem xét.

[9]. Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[10]. Xét quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trọng H một phần phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận phần phù hợp.

[11]. Xét quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Phạm Trọng N phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 45, 46, 250, 254, 255, 259, 260, 262, khoản 1 Điều 268, khoản 1 Điều 269, các Điều 298, 299, 326, 327, 331, 333, 336, 337, 339, 413, 414, 415, 416, 417, 422, 423, 425 và Điều 509 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 1, Điều 4, khoản 1 Điều 5 của Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội.

[1]. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trọng H và Phạm Trọng N phạm tội “Cướp giật tài sản”.

[2]. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

* Đối với bị cáo Nguyễn Trọng H:

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171, điểm đ khoản 1 Điều 32, Điều 38, 50, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 2 Điều 52, Điều 58, 90, 91, khoản 1 Điều 98, Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 1 Điều 1, Điều 4 của Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng H 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

* Đối với bị cáo Phạm Trọng N:

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171, điểm đ khoản 1 Điều 32, Điều 38, 50, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 2 Điều 52, Điều 58, 90, 91, khoản 1 Điều 98, Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 1 Điều 1, Điều 4 của Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội.

- Xử phạt bị cáo Phạm Trọng N 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

[3]. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Buộc bị cáo Nguyễn Trọng H và Phạm Trọng N mỗi người phải nộp sung ngân sách nhà nước số tiền 1.100.000 (một triệu một trăn ngàn) đồng thu lợi bất chính.

[4]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 22, điểm a, f khoản 1 Điều 23, Điều 47 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội và tiểu mục 1 mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, mỗi bị cáo Nguyễn Trọng H và Phạm Trọng N phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa của bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại chị Lê Quý Đ được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niên yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HS-ST ngày 19/06/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:39/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về