TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 39/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/09/2019 VỀ LY HÔN
Ngày 13 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Bảo xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 172/2019/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2019 về việc “ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Hà Thị Ch; trú tại: Thôn H, xã H T, huyện H H, tỉnh Thái Bình. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
Bị đơn: Anh Phạm Văn Ch1; ĐKHKTT: Xã Nh H, huyện V B, thành phố Hải Phòng. Hiện nay đang cai nghiện tự nguyện tại Trung tâm số 6, phường Cát Bi, quận Hải An, thành phố Hải Phòng (Trường lao động xã hội Thanh Xuân). Có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn chị Hà Thị Ch trình bày: Chị và anh Phạm Văn Ch1 kết hôn với nhau tự nguyện tại Uỷ ban nhân dân xã Nhân Hòa, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng vào ngày 29-12-2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hoà thuận, hạnh phúc được đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh Ch1 chơi bời không quan tâm đến gia đình. Do mâu thuẫn nên vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ năm 2014 đến nay, không quan tâm đến nhau. Hiện nay anh Ch1 đang đi cai nghiện tự nguyện tại Trung tâm số 6, phường Cát Bi, quận Hải An, thành phố Hải Phòng. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn được, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Văn Ch1.
Về con chung: Chị và anh Ch1 không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Chị và anh Ch1 không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Anh Phạm Văn Ch1 xác nhận về thời gian, hoàn cảnh và điều kiện kết hôn như chị Ch trình bày là đúng. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hoà thuận, hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng sống ly thân với nhau từ năm 2014, không quan tâm đến nhau. Hiện nay anh đang đi cai nghiện tự nguyện tại Trung tâm 06 phường Cát Bi, quận Hải An, thành phố Hải Phòng (nay là Trường lao động xã hội Thanh Xuân). Nay chị Ch xin ly hôn, anh đồng ý ly hôn.
Về con chung: Anh và chị Ch không có.
Về tài sản chung: Anh và chị Ch không có.
Tại phiên tòa kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án thẩm phán, hội đồng xét xử, thư ký đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, thu thập chứ ng cứ cũng như các hoạt động tố tụng khác. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành nghiêm yêu cầu của Tòa án về việc cung cấp chứng cứ và các hoạt động tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Hà Thị Ch được ly hôn với anh Phạm Văn Ch1. Về con chung không có. Tài sản chung không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Anh Phạm Văn Ch1 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn Mai Sơn, xã Nhân Hòa, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án ly hôn giữa chị Hà Thị Ch và anh Phạm Văn Ch1 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Chị Hà Thị Ch và anh Phạm Văn Ch1 đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị Hà Thị Ch và anh Phạm Văn Ch1.
[2]. Về quan hệ vợ chồng: Quan hệ vợ chồng giữa chị Hà Thị Ch và anh Phạm Văn Ch1 phát sinh từ ngày 29-12-2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Nhân Hòa, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau, anh Ch1 không quan tâm đến gia đình. Nay chị Ch xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị Ch yêu cầu được ly hôn. Qua xác minh tại địa phương thấy vợ chồng có mâu thuẫn. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2014, không quan tâm đến nhau. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt. Do đó có căn cứ để xử cho chị Hà Thị Ch được ly hôn với anh Phạm Văn Ch1 theo Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3]. Về con chung: Vợ chồng xác nhận không có, không yêu cầu giải quyết.
[4]. Về tài sản chung: Vợ chồng xác nhận không có, không yêu cầu giải quyết.
[5]. Về án phí: Chị Hà Thị Ch phải chịu án phí sơ thẩm dân sự về ly hôn là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Căn cứ Điều 147, 228, 266 Bộ luật Tố tụng dân sự. Điều 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ vợ chồng: Xử cho chị Hà Thị Ch được ly hôn anh Phạm Văn Ch1.
2. Về con chung: Chị Ch và anh Ch1 xác nhận không có, không yêu cầu giải quyết, không xét giải quyết.
3. Về tài sản chung: Chị Ch và anh Ch1 xác nhận không có, không yêu cầu giải quyết, không xét giải quyết.
4. Án phí: Chị Hà Thị Ch phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Chị Ch đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ tại Biên lai thu số 1477 ngày 20-5-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo. Chị Ch đã nộp đủ án phí.
Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 13/09/2019 về ly hôn
Số hiệu: | 39/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 13/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về