Bản án 39/2018/HSST ngày 30/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

 TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 39/2018/HSST NGÀY 30/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 01 năm 2018, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 21/2018/HSST ngày 10 tháng 01 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2018/QĐXXST -HS ngày 17/ 01/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lưu Văn H, tên gọi khác: không; sinh ngày 27 tháng 7 năm 1979; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Xóm T, xã C, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam;Dân tộc: Sán dìu; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: 11/12; Nghề nghiệp: không; Con ông: Lưu Văn S, sinh năm 1950; Con bà:Dương Thị H, sinh năm 1951; Gia đình có 06 anh em, bị cáo là con thứ năm trong gia đình;Chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/12/2017 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. ( Có mặt tại phiên toà)

Người chứng kiến: Anh Bùi Công Đ, sinh năm: 1979, trú tại: Xóm T, phường Đ, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. ( Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 12/12/2017, tổ công tác của Công an phường Đồng Bẩm, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tại khu vực xóm N, phường Đ thì phát hiện 01 nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, nam thanh niên khai tên Lưu Văn H (sinh năm 1979, HKTT: xóm Thác Lở, xã Cao Ngạn, thành phố Thái Nguyên). Quá trình kiểm tra phát hiện tại lòng bàn tay trái của H có 01 túi nilon màu trắng bên trong có 01 gói nhỏ bằng giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng (H khai là Hêrôin). Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với H, thu giữ niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày tiến hành cân xác định trọng lượng: số chất bột màu trắng thu giữ của Lưu Văn H có trọng lượng 0,157 gam.

Tại bản kết luận giám định số 140/KL-PC54 ngày 18/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận số chất bột màu trắng thu giữ của Lưu Văn H là chất ma túy, loại Hêrôin có trọng lượng(khối lượng) là: 0,157 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Lưu Văn H khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 12/12/2017, H đi xe buýt đến khu vực xóm N, phường Đ, thành phố Thái Nguyên mục đích tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Khi đến nghĩa trang xóm N, H gặp và mua ma túy của 01 người đàn ông không quen biết 01 gói Hêrôin với giá 100.000 đồng. Mua xong, H cầm số Hêrôin vừa mua được trong lòng bàn tay trái rồi đi tìm nơi sử dụng thì bị Cơ quan Công an phát hiện thu giữ vật chứng.

Lời khai nhận của Lưu Văn H phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định.

Vật chứng của vụ án:

- 01 bì niêm phong ký hiệu H1. Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 32/KSĐT-MT ngày 09/01/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Lưu Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả.

Phần tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ quyền công tố luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố, sau khi đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lưu Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH 13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14

Xử phạt:

Bị cáo Lưu Văn H: Từ 18 đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo;

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS: Tịch thu, tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu H1.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23, Nghị quyết số 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố xét xử là không oan, đúng người, đúng tội.Lời nói cuối cùng của bị cáo hứa sửa chữa và xin được hưởng mức án nhẹ nhất, để sớm trở về là người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lưu Văn H không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lưu Văn H thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện.Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà là khách quan phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, với vật chứng đã thu được, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ xác định: Hồi 10 giờ 45 phút ngày 12/12/2017, tại khu vực xóm Nhị H, phường Đồng Bẩm, thành phố Thái Nguyên, Lưu Văn H đang có hành vi tàng trữ 0,157 gam Hêrôin để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Đồng Bẩm, thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 ,nay là điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Căn cứ điểm h, i khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH 13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH 14, Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt, điều luật theo quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 theo nguyên tắc có lợi cho bị cáo.

[3]. Bản cáo trạng số:32/KSĐT-MT ngày 09/01/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Lưu Văn H về tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Điều 249 BLHS quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

c, Hêrôin,….có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05 gam”

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS bị cáo được hưởng: Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc dược của Nhà nước gây mất trật tự trị an xã hội.Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với sức khỏe, kinh tế xã hội, nhưng do bản thân nghiện ma túy nên đã dẫn đến phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xét xử bằng pháp luật hình sự và có một mức án phù hợp, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, là đối tượng nghiện ma túy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ Luật hình sự.

Hội đồng xét xử xét thấy, cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe và phòng ngừa chung. Mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị trong phần luận tội là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, bản thân là người nghiện ma túy, biên bản xác minh và lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định bị cáo không có tài sản, thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về vật chứng của vụ án: Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01bì niêm phong ký hiệu H1

[7]. Án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8].Các vấn đề khác: Trong vụ án này, Lưu Văn H khai đã mua ma túy của 01 người đàn ông không quen biết, do không xác định được lai lịch, địa chỉ của người đàn ông trên nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm h, i khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14;

- Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự;

1/ Tuyên bố: Bị cáo Lưu Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Xử phạt Lưu Văn H 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 12/12/2017.

- Quyết định tạm giam bị cáo Lưu Văn H 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2/ Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3/ Về vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu H1

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 85 ngày 28/12/2017 giữa Công an thành phố Thái Nguyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên).

3.Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326 của UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Lưu Văn H phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm,có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2018/HSST ngày 30/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:39/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về