Bản án 39/2018/HS-ST ngày 29/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG NHÉ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 39/2018/HS-ST NGÀY 29/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 29 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 36/2018/TLST-HS ngày 20/4/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Vàng A S (Tên gọi khác: Không); Sinh năm 1982; Tại xã Ẳ, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Bản H, xã Ch, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ văn hoá: Không biết chữ; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vàng Giống T (đã chết) và bà Lỳ Thị B; Có vợ là Mùa Thị I (đã chết) và có 07 người con, con lớn nhất 18 tuổi, con nhỏ nhất 4 tuổi; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 10/01/2018 đến ngày 12/01/2018, tạm giam từ ngày 12/01/2018 đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Pờ Go Loòng – Luật sư, cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

- Người phiên dịch: Anh Thào A V, SN 1982. Trú tại: Bản N, xã M, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ ngày 01 tháng 01 năm 2018 Vàng A S đi bộ một mình từ nhà ở bản H, xã Ch, huyện M, tỉnh Điện Biên để đi tìm mua thuốc phiện về sử dụng. Khi đi đến cuối bản bản H, xã Ch, huyện M, tỉnh Điện Biên thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông (S không biết tên tuổi, địa chỉ). Qua nói chuyện, S đã mua của ông ta 01 gói thuốc phiện với giá 105.000đồng. Mục đích S mua thuốc phiện là để mang về sử dụng cho bản thân vì nghiện ma túy. Sau khi mua được thuốc phiện, S mang về nhà cất giấu ở đầu giường ngủ để sử dụng dần. Đến 11 giờ 40 phút ngày 10/01/2018, S lấy thuốc phiện ra để hút, khi đang hút thì bị tổ công tác Đồn biên phòng Leng Su Sìn phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng vụ án gồm 01 gói thuốc phiện và 01 bộ bàn đèn tự tạo dùng để hút thuốc phiện.

Ngày 11/01/2018 Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường Nhé cùng với Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé tiến hành mở niêm phong, xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định và ra quyết định trưng cầu giám định. Tại bản kết luận giám định số 256/GĐ-PC54 ngày 04/02/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất dẻo màu nâu đen gửi giám định của Vàng A S là thuốc phiện; Khối lượng thuốc phiện thu giữ của Vàng A S là 11,21 gam.

Bản cáo trạng số: 16/CT-VKS-MN ngày 20/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé đã truy tố Vàng A S để xét xử về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát duy trì công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Vàng A S từ 14 đến 18 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo; Tịch thu tiêu hủy vật chứng vụ án và miễn án phí cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với truy tố của Viện kiểm sát về tội danh, điều khoản áp dụng, tình tiết giảm nhẹ, án phí và xử lý vật chứng. Về hình phạt, đề nghị HĐXX xem xét hoàn cảnh, nhân thân của bị cáo, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bố chết, vợ chết, có nhiều con nhỏ, là lao động chính trong gia đình, đề nghị xử phạt bị cáo từ 12 đến 16 tháng tù.

Tại phiên tòa, bị cáo Vàng A S thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, nhất trí với luận cứ bào chữa của luật sư cũng như luận tội của Viện kiểm sát và không có ý kiến bổ sung gì thêm. Bị cáo chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo với lý do gia đình có hoàn cảnh khó khăn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường Nhé, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Tại phiên tòa bị cáo khai ngày 01 tháng 01 năm 2018, bị cáo mua được 11,21 gam thuốc phiện của một người đàn ông dân tộc Mông (không biết tên, tuổi, địa chỉ) ở khu vực cuối bản H, xã Ch, huyện M, tỉnh Điện Biên. Sau khi mua được thuốc phiện, bị cáo mang về cất giấu tại nhà của bị cáo ở bản Húy To 2 để sử dụng dần thì bị phát hiện bắt giữ. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng đã có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi tàng trữ trái phép 11,21 gam thuốc phiện nhằm mục đích để sử dụng của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội và hình phạt được quy định tại tại điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biện truy tố bị cáo về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Xét về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Đây là vụ án nghiêm trọng về ma túy, bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Song chỉ vì muốn có ma túy để sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã bất chấp sự nghiêm cấm của pháp luật cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây những tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, gây mất trật tự trị an, cản trở tới việc thực hiện các chính sách kinh tế, làm gia tăng các tệ nạn xã hội, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Do vậy cần xử lý bị cáo có mức hình phạt thỏa đáng phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số, không được học hành, nhận thức và hiểu biết pháp luật còn hạn chế, chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Từ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Tại phiên tòa luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo từ 12 đến 16 tháng tù. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không được học hành, nhận thức và hiểu biết pháp luật còn hạn chế, phạm tội với trọng lượng ma túy ít, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có hoàn cảnh rất khó khăn, bố chết, vợ chết, bản thân phải nuôi 07 con nhỏ, là lao động chính trong gia đình. Do đó đề nghị xử phạt của luật sư là có căn cứ, hợp tình, hợp lý nên cần xem xét xử phạt bị cáo như đề nghị của vị luật sư.

Xét hoàn cảnh kinh tế gia đình của bị cáo còn nhiều khó khăn, thuộc diện hộ nghèo. Do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra không xác định được người này là ai? Ở đâu, do đó không có cơ sở để xử lý.

[3] Về xử lý vật chứng: Đối với 7,93 gam thuốc phiện còn lại sau giám định và 01 bộ bàn đèn tự tạo dùng để hút thuốc phiện cần tịch thu tiêu hủy.

[4] Về án phí: Xét thấy bị cáo thuộc diện hộ nghèo, theo Giấy chứng hộ nghèo năm 2018 do UBND xã Ch cấp, đồng thời là đồng bào dân tộc thiểu số, thường trú ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn đề nghị miễn án phí. Do đó cần miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Vàng A S phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Vàng A S 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 10/01/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu, tiêu hủy 7,93 gam thuốc phiện và 01 bộ bàn đèn tự tạo, là vật chứng vụ án Vàng A S. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/4/2018 giữa Công an huyện Mường Nhé và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Nhé.

3. Về án phí: Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm,thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vàng A S.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2018/HS-ST ngày 29/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:39/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Nhé - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về