TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 39/2018/HS-ST NGÀY 17/04/2018 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 17 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 31/2018/TLST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:
Huỳnh Tấn Q, (tên gọi khác: G), sinh năm 1994, tại Long An; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 3, xã B, huyện H, tỉnh Long An. Chỗ ở hiện nay: Ấp B, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh Văn P và bà Cao Thị Út E; Bản thân chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam từ ngày 06/02/2018 đến nay (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Trương Văn L, sinh năm 1983. (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp S, xã L, thành phố T, tỉnh Trà Vinh.
2/ Cao Thị Út E, sinh năm 1973. (có mặt) Địa chỉ: Ấp 3, xã B, huyện H, tỉnh Long An
NỘI DUNG VỤ ÁN
1
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 08 giờ ngày 01/10/2017, Huỳnh Tấn Q sinh năm 1994, hộ khẩu thường trú: ấp 3, xã B, huyện H, tỉnh Long An uống cà phê với người bạn tên Út (không rõ nhân thân lai lịch) tại quán cà phê 999 thuộc thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Q hỏi Út có việc gì làm giới thiệu cho Q. Út nói có quen một người chuyên vận chuyển xe trộm, Út hỏi Q có làm không, Q đồng ý. Út cho Q số điện thoại 0979355720 của người tên D. Sau đó, Q sử dụng điện thoại số 0908460020 điện thoại cho người đàn ông tên D (không rõ nhân thân lai lịch), D thỏa thuận thuê Q đến khu công nghiệp Sóng Thần, tỉnh Bình D để chạy xe do trộm mà có về cầu Bà Vòm thuộc huyện Đức Huệ, tỉnh Long An với giá 500.000 đồng một chiếc, khi nào có xe D sẽ điện thoại cho Q.
Khoảng 10 phút sau, D điện thoại cho Q và nói Q đến khu công nghiệp Sóng Thần để nhận xe, Q đi xe buýt đến khu công nghiệp Sóng Thần và điện thoại cho D, D kêu Q đến bãi xe Linh Trung. Khi đến bãi xe Linh Trung, Q gặp một người phụ nữ hỏi “Em lấy xe về Đức Huệ hả?”, Q trả lời “Em lấy xe Sirius màu trắng”, người phụ nữ giao cho Q 01 xe môtô hiệu Sirius màu trắng, biển kiểm soát 43K1-162.75, 01 chìa khóa xe và 500.000 đồng tiền công vận chuyển. Khi nhận được xe, Q điều khiển xe về huyện Đức Huệ, khi đến địa phận xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa thì bị lực lượng Công an xã Mỹ Hạnh Bắc bắt quả tang Q cùng tang vật.
Tang vật tạm giữ gồm: 01 xe môtô Yamaha Sirius màu trắng, số khung: RLCS5C640-9Y168566, số máy: 5C64-168565, biển số 43K1-162.75; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, vỏ màu đen, số sim 0908460020; Số tiền 155.000 đồng.
Qua điều tra xác định: xe môtô Yamaha Sirius màu trắng, có số khung: RLCS5C640-9Y168566, số máy: 5C64-168565 là xe của ông Trương Văn L sinh năm 1983, hộ khẩu thường trú: S, xã L, thành phố T, tỉnh Trà Vinh đứng tên đăng ký sở hữu. Khoảng 00 giờ ngày 28/9/2017, ông L để xe tại phòng trọ của nhà trọ số 574/95 Sinco, khu phố 12, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh thì bị trộm mất xe.
Tại bản kết luận về định giá tài sản số 54 ngày 10/10/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đức Hòa kết luận: 01 xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, số khung: RLCS5C640-9Y168566, số máy: 5C64-168565 trị giá 18.105.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số 34/CT-VKSĐH ngày 19 tháng 3 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An truy tố bị cáo Huỳnh Tấn Q về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên sau khi phân tích tính chất và mức độ nguy hiểm xã hội của hành vi vi phạm pháp luật mà bị cáo Huỳnh Tấn Q gây ra; đồng thời căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Huỳnh Tấn Q phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Áp dụng khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Huỳnh Tấn Q mức hình phạt từ 6 tháng đến 9 tháng tù.
Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Về trách nhiệm dân sự: Ông Trương Văn L là chủ sở hữu hợp pháp của xe môtô Yamaha Sirius màu trắng, có số khung: RLCS5C640-9Y168566, số máy: 5C64-168565, sau khi nhận lại tài sản không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên đề nghị không xem xét. Bà Cao Thị Út E là mẹ của bị cáo Huỳnh Tấn Q tự nguyện nộp thay số tiền mà bị cáo Q thu lợi bất chính là 345.000 đồng và số tiền 155.000 đồng là một phần tiền thu lợi bất chính của bị cáo Q bị tạm giữ khi bị bắt quả tang nên đề nghị tịch thu sung công quỹ.
Về vật chứng vụ án:
- Biển số xe 43K1-162.75 không rõ nguồn gốc, và số sim 0908460020 bị cáo dùng vào việc phạm tội đề nghị tịch thu tiêu hủy;
- Một (01) điện thoại di động hiệu Nokia 106, vỏ màu đen bị cáo Q dùng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
Đối với người đàn ông tên D điện thoại thuê Huỳnh Tấn Q vận chuyển xe môtô do người khác phạm tội mà có và người phụ nữ giao xe môtô do phạm tội mà có cho Q tại bãi xe Linh Trung, do không xác định được nhân thân lai lịch của 02 người này, Cơ quan điều tra đang tiếp tục truy xét làm rõ xử lý sau nên đề nghị không xem xét.
Tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Tấn Q hoàn toàn nhìn nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa truy tố không đưa ra chứng cứ nào minh oan chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Trương Văn L có lời trình bày tại Cơ quan điều tra: Khoảng 00 giờ ngày 28/9/2017, ông để xe môtô Yamaha Sirius màu trắng, có số khung: RLCS5C640-9Y168566, số máy: 5C64-168565 tại phòng trọ của nhà trọ số 574/95 Sinco, khu phố 12, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh thì bị trộm mất. Nay ông đã nhận lại tài sản bị trộm, ông không có yêu cầu gì khác trong vụ án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Cao Thị Út E trình bày tại phiên tòa: Bà là mẹ của bị cáo Huỳnh Tấn Q, bà có tự nguyện thay bị cáo Q nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 345.000 đồng. Nay, bà không có yêu cầu gì đối với số tiền này, bà mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Q.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đức Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định pháp luật.
[2]. Lời khai nhận tội của bị cáo Huỳnh Tấn Q trước Tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng với bản kết luận về định giá tài sản số 54 ngày 10/10/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đức Hòa, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang vào lúc 20 giờ 30 phút ngày 01/10/2017 và phù hợp với nội dung bản cáo trạng. Từ đó thấy rằng, dù biết rõ nguồn gốc tài sản là do người khác phạm tội mà có nhưng vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân, bị cáo Huỳnh Tấn Q đã nhận vận chuyển tài sản là xe môtô loại xe Sirius màu trắng, biển kiểm soát 43K1-162.75 (xe có giá trị thành tiền là 18.105.000 đồng) đi tiêu thụ cho một người đàn ông tên D (không rõ nhân thân lai lịch), thu lợi bất chính với số tiền 500.000 đồng.
Trên cơ sở đó, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Huỳnh Tấn Q phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999. Do khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) quy định hình phạt về tội danh này nặng hơn, do đó theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội thì hành vi phạm tội của bị cáo được điều tra, truy tố và xét xử theo khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999 là phù hợp.
Như vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An truy tố bị cáo Huỳnh Tấn Q với tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3]. Hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo Huỳnh Tấn Q gây ra là nguy hiểm. Bị cáo biết rõ đây là tài sản do phạm tội mà có, nhưng bị cáo vẫn nhận vận chuyển để tiêu thụ được tài sản. Hành vi này đã xâm phạm đến khách thể là trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến công tác bảo vệ pháp luật và phòng chống tội phạm của Nhà nước; là tiếp tay, thúc đẩy cho hoạt động tội phạm. Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của bị cáo là ảnh hưởng xấu đến trật tự công cộng nhưng bị cáo vẫn bất chấp thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng để có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4]. Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện nộp lại toàn bộ số tiền thu lợi bất chính. Ngoài ra, bị cáo có ông nội (ông Huỳnh Văn H) là thương binh và bác ruột (ông Huỳnh Công M) là liệt sĩ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) nên khi áp dụng hình phạt cho bị cáo có xem xét giảm nhẹ một phần. Tuy nhiên cũng cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.
Xét theo lời đề nghị của Kiểm sát viên áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Huỳnh Tấn Q là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[5]. Đối với người đàn ông tên D điện thoại thuê Huỳnh Tấn Q vận chuyển xe môtô do người khác phạm tội mà có và người phụ nữ giao xe môtô do phạm tội mà có cho Q tại bãi xe Linh Trung, do không xác định được nhân thân lai lịch của 02 người này, Cơ quan điều tra đang tiếp tục truy xét làm rõ xử lý sau nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.
[6]. Về tang vật chứng, theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
- Đối với biển số xe 43K1-162.75 qua xác minh không rõ nguồn gốc và số sim 0908460020 bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp;
- Đối với một (01) điện thoại di động hiệu Nokia 106, vỏ màu đen bị cáo Q dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước là phù hợp.
[7]. Về trách nhiệm dân sự:
- Ông Trương Văn L là chủ sở hữu hợp pháp của xe môtô Yamaha Sirius màu trắng, có số khung: RLCS5C640-9Y168566, số máy: 5C64-168565 đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên không đề cập xem xét.
- Đối với số tiền 345.000 đồng mà bị cáo Q thu lợi bất chính (do mẹ bị cáo là bà Cao Thị Út E tự nguyện nộp thay) và 155.000 đồng là một phần tiền thu lợi bất chính của bị cáo Q bị tạm giữ khi bị bắt quả tang nên tịch thu sung công quỹ là phù hợp với Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[8]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);
Tuyên bố bị cáo Huỳnh Tấn Q (G) phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Tấn Q 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/02/2018.
Áp dụng khoản 1 Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Tiếp tục tạm giam bị cáo Huỳnh Tấn Q 45 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 17/4/2018) để đảm bảo cho việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.
Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Về tang vật chứng và trách nhiệm dân sự:
- Tịch thu tiêu hủy: biển số xe 43K1-162.75 và số sim 0908460020;
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: một (01) điện thoại di động hiệu Nokia 106, vỏ màu đen; số tiền 500.000 đồng.
Tiền và tang vật trên do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 19/3/2018; Biên lai thu tiền số 0001521 ngày 15/3/2018 và số 0001529 ngày 19/3/2018.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Huỳnh Tấn Q nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung vào công quỹ Nhà nước.
Án này là sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 39/2018/HS-ST ngày 17/04/2018 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 39/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/04/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về