Bản án 39/2018/HNGĐ-ST ngày 18/05/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 39/2018/HNGĐ-ST NGÀY 18/05/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Trong ngày 18 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cao Lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 201/2018/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2018 về việc: “Tranh chấp hôn nhân gia đình - Xin ly hôn, nuôi con và chia tài sản chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 121/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 27/4/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hồ Nguyễn Nhất T, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Số 84A, khóm T, phường T, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.

Bị đơn: Anh Võ Văn A, sinh năm 1981.

Địa chỉ: Ấp 4, xã Mỹ L, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

(Các đương sự có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 26/3/2018; biên bản hòa giải ngày 27/4/2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Hồ Nguyễn Nhất T trình bày:

- Về hôn nhân: Chị T và anh A tổ chức đám cưới và sống chung với nhau năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, thành phố Sa Đéc vào ngày 10/12/2013. Trong quá trình sống chung thường có mâu thuẫn về kinh tế, cự cải nên vợ chồng không thể nào chung sống hòa hợp được. Vợ chồng ly thân nhau từ tháng 10/2017 cho đến nay, chị T cũng cho anh A cơ hội hàn gắn tình cảm nhưng không thành. Xét thấy hôn nhân không đạt được mục đích. Nay chị T yêu cầu được ly hôn với anh Võ Văn A.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Võ Ngọc Cát T, sinh ngày 29/11/2014, hiện đang sống chung với chị T. Khi ly hôn chị T yêu cầu được nuôi con chung, yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con hàng tháng với số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung.

- Về nợ chung: Trong quá trình sống chung vợ chồng không có nợ ai và cũng không cho ai vay nợ.

Tại phiên tòa hôm nay chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, yêu cầu anh A cấp dưỡng theo quy định pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Tại biên bản hòa giải ngày 27/4/2018 và trong quá trình xét xử, bị đơn anh Võ Văn T trình bày:

- Về hôn nhân: Anh A thừa nhận thời gian chung sống với nhau, cũng như việc vợ chồng sống chung có đăng ký kết hôn như chị T trình bày. Trong thời gian sống chung vợ chồng cũng thường hay cự cãi và hiện không còn sống chung từ tháng 10/2017 cho đến nay. Trong thời gian ly thân anh có tìm cách hàn gắn tình cảm nhưng không được. Nay anh A cho rằng vợ chồng vẫn còn khả năng hàn gắn tình cảm và vì con nên anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu chị Hồ Nguyễn Nhất T.

- Về con chung: Vợ chồng 01 con chung tên Võ Ngọc Cát T, sinh ngày 29/11/2014, hiện đang sống chung với chị T. Nếu tòa án cho ly hôn anh đồng ý giao con chung cho chị T nuôi dưỡng, anh đồng ý cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

- Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Vợ chồng không có nợ chung. Tài liệu chứng cứ trong hồ sơ gồm:

1. Giấy chứng nhận kết hôn Võ Văn A – Hồ Nguyễn Nhất T, ngày đăng ký 10/12/2013 do UBND phường T, thành phố Sa Đéc cấp (Bản sao);

2. Giấy khai sinh Võ Ngọc Cát T (Bản sao).

Các tài liệu trong hồ sơ các đương sự thống nhất theo biên bản phiên họp công khai và tiếp cận chứng cứ ngày 27/4/2018.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị Hồ Nguyễn Nhất T có đơn yêu cầu được ly hôn với anh Võ văn A. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thì quan hệ pháp luật trong vụ án này là “Tranh chấp hôn nhân gia đình - Xin ly hôn, nuôi con và chia tài sản chung”.

Anh Võ Văn A là người bị kiện hiện đang cư trú tại ấp 4, xã M, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 35 và Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh.

[2] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh A sống chung với nhau từ năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, thành phố Sa Đéc vào ngày 10/12/2013. Theo chị T trình bày, trong cuộc sống vợ chồng thường phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm và có nhiều mâu thuẫn về kinh tế, cự cải nên vợ chồng không thể nào chung sống hòa hợp được. Nay chị T nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa nên chị T yêu cầu được ly hôn với anh A. Xét thấy hôn nhân giữa chị Tâm và anh A là hợp pháp, chị T yêu cầu xin ly hôn là có căn cứ. Bởi vì, chị T và anh A đều thừa nhận là vợ chồng có mâu thuẫn nhau. Hiện nay vợ chồng không còn sống chung từ tháng 10/2017 cho đến nay, không ai quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Chị T cũng cho anh A cơ hội hàn gắn tình cảm nhưng không thành. Anh A cho rằng vẫn còn thương vợ và con, muốn hàn gắn tình cảm nên không đồng ý ly hôn nhưng anh A không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng, tiếp tục duy trì cuộc sống hôn nhân. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu của chị T.

- Về con chung: Chị Tvà anh A thừa nhận có 01 con chung tên Võ Ngọc Cát T, sinh ngày 29/11/2014, hiện đang sống chung với chị T. Chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con theo quy định. Anh A không đồng ý ly hôn theo yêu cầu chị T, nếu ly hôn anh đồng ý giao con chung cho chị T nuôi dưỡng, anh đồng ý cấp dưỡng nuôi con theo quy định hàng tháng với số tiền bằng ½ mức lương cơ sở, cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Xét thấy sự thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện và phù hợp nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận sự thỏa thuận này của các đương sự. Giao con chung cho chị T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Anh Võ Văn A có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản.

- Về tài sản chung: Chị T và anh A trình bày không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Về nợ chung: Chị T và anh A trình bày không có nợ chung.

[3] Về án phí:

Căn cứ Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 5, 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí - lệ phí Tòa án:

Chị Hồ Nguyễn Nhất T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm về ly hôn nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị T đã nộp theo Biên lai số 04520 ngày 11/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Anh Võ Văn A phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm về cấp dưỡng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, 56, 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 5, 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí - lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của chị Hồ Nguyễn Nhất T.

1.1. Về hôn nhân: Chị Hồ Nguyễn Nhất T được ly hôn với anh Võ Văn A.

1.2. Về con chung:

Chị Hồ Nguyễn Nhất T được tiếp tục nuôi dưỡng Võ Ngọc Cát T, sinh ngày 29/11/2014. Anh A đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng với số tiền bằng ½ mức lương cơ sở tương ứng với từng thời điểm thi hành án. Thời gian cấp dưỡng nuôi con chung được tính từ tháng 5/2018 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Anh Võ Văn A có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản.

1.3. Về tài sản chung: Chị T và anh A thống nhất không có, không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

1.4. Về nợ chung: Không có.

2. Về án phí: 

Chị Hồ Nguyễn Nhất T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm về ly hôn nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị A đã nộp theo Biên lai số 04520 ngày 11/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Anh Võ Văn A phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm về cấp dưỡng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2018/HNGĐ-ST ngày 18/05/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:39/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về