Bản án 39/2017/HSST ngày 14/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN KIẾN AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 39/2017/HSST NGÀY 14/11/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 38/2017/HSST ngày 27 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo: 

Hoàng Văn P, tên gọi khác: Không, sinh ngày 15/6/1986; đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 20/14/229 H, phường H, quận L, thành phố Hải Phòng; dân tộc Kinh; quốc tịch Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Hoàng Văn T, sinh năm 1956; con bà Đặng Thị Lan O, sinh năm 1960; gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/6/2017, chuyển tạm giam ngày 27/6/2017 tại Trại tạm giam Công an thành phố Hải Phòng. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: D, sinh năm 1991

Địa chỉ: Số 266, T, phường N, quận L, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Hoàng Văn P bị Viện kiểm sát nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 16 giờ 35 phút ngày 21/6/2017, tại quán Cà phê số 10 trên phố Việt Đức thuộc tổ 18, phường L, quận K, thành phố Hải Phòng, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận K bắt quả tang Hoàng Văn P bán trái phép 01 túi nilon, kích thước 3x2,5cm bên trong chứa tinh thể màu trắng cho D (sinh năm 1991, trú tại: Số 266 T, phường N, quận L, thành phố Hải Phòng) với giá 500.000 đồng. P khai nhận đây là số ma túy đá bán cho D.

Thu giữ của D: Trong lòng bàn tay trái 01 túi nilon kích thước 3x2,5cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng (mẫu số 1); ngoài ra còn thu giữ của D 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu xanh và số tiền 150.000 đồng.

Thu giữ dưới chân bên trái của Hoàng Văn P số tiền 500.000 đồng (gồm 02 tờ mệnh giá 200.000 đồng và 01 tờ mệnh giá 100.000 đồng) và 01 điện thoại Nokia 1202 màu đen; ngoài ra còn thu giữ của P 01 ví da màu đen bên trong có 478.000 đồng, 01 xe mô tô Yamaha Jupiter biển kiểm soát 15B1-109.35, 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng.

Cùng ngày, cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận K khám xét khẩn cấp nơi ở của P tại: Số nhà 20/14/229 H, phường H, quận L, thành phố Hải Phòng. Thu giữ trong túi nhỏ, bên phải, phía trước, quần bò hiệu Diesel màu xanh của P 01 vỏ túi cao dán Salonpas bên trong có 03 túi nilon kích thước 3x2,5cm, các túi nilon này đều chứa tinh thể màu trắng (Mẫu số 2).

Tại Kết luận giám định số 809/KLGĐ ngày 25/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng của mẫu số 1 gửi giám định có Methamphetamine; trọng lượng Methamphetamine có trong 0,4816 gam tinh thể là 0,3349 gam. Tinh thể màu trắng của mẫu số 2 gửi giám định có Methamphetamine; trọng lượng Methamphetamine có trong 0,5275 gam tinh thể là 0,3713 gam.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận K, các đối tượng khai nhận như sau:

Khoảng trưa ngày 17/6/2017, P điều khiển xe mô tô một mình đến khu vực đường tàu thuộc quận L, thành phố Hải Phòng mua 01 túi ma túy đá kích thước 2,5 x 3cm với giá 1.000.000 đồng và xin thêm 05 túi nilon (bên trong đều không chứa gì) của một người đàn ông tên là Hoàng, P đã cầm túy ma túy và 05 túi nilon về nhà. Ngày 18/6/2017, P chia số ma túy trên vào 04 túi nilon đã xin được của Hoàng; P cho 04 túi này cùng túi nilon ban đầu đựng ma túy và một túi nilon không chứa gì vào vỏ túi cao dán Salonpas và cất dấu trong túi nhỏ, phía trước quần bò màu xanh để trong phòng ngủ của P.

Sau đó Hoàng Văn P đã bán ma túy đá cho D 02 lần, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 20/6/2017, do có nhu cầu sử dụng ma túy đá nên D gọi điện đến số máy 01205609994 của P nói “Anh để cho em túi năm trăm” và hẹn đến quán Cà phê đối diện nhà máy bia ở phường Quán Trữ, quận K để giao dịch. P hiểu là D hỏi mua ma túy nên trả lời “Đợi anh tý” và lấy 01 túi nilon chứa ma túy trong vỏ túi cao dán Salonpas, cầm ở lòng bàn tay trái, điều khiển xe mô tô đi sang quận K. Khi đến trước cửa quán Cà phê số 116 trên đường L thuộc tổ L 2, phường Q, quận K, thành phố Hải Phòng, P bảo D đi vào đường Cụm khu công nghiệp, cạnh quán cà phê. P chở D đi được khoảng 20m thì vòng tay trái ra sau đưa cho D 01 túi ma túy, D đưa cho P 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng. Số ma túy mua được D đã sử dụng hết.

Lần thứ hai: Khoảng 16 giờ 00 phút, ngày 21/6/2017, D tiếp tục gọi điện đến số máy 01205609994 của P nói “Anh mang giúp em túi năm trăm” và hẹn đến quán Cà phê số 10 trên phố Việt Đức thuộc tổ 18, phường L, quận K, thành phố Hải Phòng để giao dịch. P trả lời “Ừ, đợi tí” và lấy tiếp 01 túi ma túy trong vỏ túi cao dán Salonpas, cho vào 01 túi không chứa gì, cầm ở lòng bàn tay trái. Số ma túy còn lại P cất giấu vào vị trí ban đầu và điều khiển xe mô tô Yamaha Jupiter biển kiểm soát 15B1-109.35 đi sang quận K. Đến nơi, P dựng xe ở ngoài, đi vào ngồi đối diện với D. Khi P dùng tay trái thả gói ma túy vào lòng bàn tay trái của D đang để trên bàn, D dùng tay phải lấy 500.000 đồng (gồm 02 tờ mệnh giá 200.000 đồng, 01 tờ mệnh giá 100.000 đồng) đưa cho P, thì bị cơ quan Công an quận K bắt quả tang. Quá trình bị bắt P chống cự nên làm rơi số tiền trên cùng điện thoại Nokia 1280 màu đen xuống dưới chân bên trái, Cơ quan Công an tiến hành thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên.

Ngày 27/6/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận K đã quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Hoàng Văn P về tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

Tại bản Cáo trạng số 34/CT-VKS ngày 27 tháng 10 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân quận K đã truy tố Hoàng Văn P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Hoàng Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án nêu trên;

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Hoàng Văn P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Hoàng Văn P từ 8 năm đến 9 năm tù. Về hình phạt bổ sung: Phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng để tịch thu sung quỹ Nhà nước. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 41 Bộ luật Hình sự để xử lý vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của D và Hoàng Văn P còn lại sau giám định. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 500.000 đồng thu giữ của P và 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 1202 màu đen. Trả lại Hoàng Văn P 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng, 01 ví da màu đen, 01 quần bò hiệu Diesel màu xanh, số tiền 478.000 đồng nhưng cần tạm giữ số tiền 478.000 đồng để đảm bảo thi hành án. Trả lại D 01 điện thoại di động Nokia 1280 vỏ màu xanh.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án,

XÉT THẤY

Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận:

Ngày 21/6/2017 Hoàng Văn P có hành vi bán trái phép 0,3349 gam Methamphetamine cho D và tàng trữ với mục đích sử dụng cá nhân và bán trái phép cho người khác 0,3713 gam Methamphetamine. Hành vi của Hoàng Văn P đã vi phạm Điều 194 Bộ luật Hình sự, phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy". Ngoài lần Hoàng Văn P bán trái phép 0,3349 gam Methamphetamine cho D ngày 21/6/2017, Hoàng Văn P còn có 01 lần bán trái pháp chất ma túy cho D vào ngày 20/6/2017. Hành vi của Hoàng Văn P thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần đã vi phạm điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận K đã truy tố bị cáo Hoàng Văn P ra trước Toà án nhân dân quận K để xét xử về tội danh theo điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Việc áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Hoàng Văn P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với một mức án nghiêm khắc và cần thiết tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nó trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý chất ma túy của Nhà nước, ngay từ khi ra đời, Nhà nước ta đã giữ độc quyền và thống nhất quản lý chất ma túy với những quy định nghiêm ngặt bởi chất ma túy là chất gây nghiện nguy hiểm, vi phạm quy định về quản lý chất ma túy không chỉ gây khó khăn cho việc kiểm soát chất ma túy của Nhà nước mà còn tạo ra lớp người nghiện, qua đó đe dọa nghiêm trọng đến an toàn xã hội, trật tự công cộng, sức khỏe và sự phát triển bình thường của giống nòi Việt Nam. Vì vậy pháp luật yêu cầu phải xử lý nghiêm để cải tạo, giáo dục bị cáo và đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung.

Khi lượng hình bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ sau: Nhân thân chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu, có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo có thời gian phục vụ trong quân đội, được tặng danh hiệu Chiến sĩ tiên tiến, bị cáo có bố là Hoàng Văn T có thời gian phục vụ trong quân đội. Đây là tình tiết giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo được quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Cần áp dụng khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự, phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hoàng Văn P để thể hiện rõ sự nghiêm minh của pháp luật.

Truy thu 500.000 đồng đối với Hoàng Văn P là tiền P đã thu lời bất chính từ việc bán trái phép chất ma túy cho D ngày 20/6/2017 mà có.

Trong vụ án này, D là đối tượng mua ma tuý của P để sử dụng, khi bị Công an quận K bắt quả tang thu trong người D 0,3713 gam Methamphetamine, D chưa bị kết án về tội tàng trữ, vận chuyển trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý nên không đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, D không phải chịu trách nhiệm hình sự; Công an quận K đã ra quyết định xử lý hành chính đối với D là đúng quy định của pháp luật.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho P ngày 17/6/2017, không xác minh được lai lịch, địa chỉ nên chưa xử lý.

Quá trình điều tra, P và D khai nhận quen nhau khi cùng đến nhà “Tùng tóc”, tại đây D có hỏi một số thanh niên không quen biết thì có số điện thoại của P và biết P có bán ma túy đá. Ngoài ra, ngày 20/6/2017 khi P đến quán Cà phê số 116 trên đường L thuộc tổ L 2, phường Q, quận K, thành phố Hải Phòng có nhìn thấy một nam thanh niên ngồi cùng với D. Tuy nhiên, đến nay P và D đều không nhớ lai lịch, địa chỉ của hai người nói trên nên không xử lý.

Xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án gồm: Số ma túy thu giữ của D và P còn lại sau giám định, 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu xanh, số tiền 1.128.000 đồng, 01 điện thoại Nokia 1202 màu đen, 01 ví da màu đen, 01 xe mô tô Yamaha Jupiter biển kiểm soát 15B1-109.35, 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng, 01 quần bò hiệu Diesel màu xanh.

Đối với số ma túy thu giữ của D và P còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 số tiền 1.128.000 đồng trong đó: 500.000 đồng là tiền P bán trái phép chất ma túy cho D ngày 21/6/2017 mà có cần tịch thu sung quỹ Nhà nước; 478.000 đồng là tiền do P lao động hợp pháp mà có, không liên quan đến vụ án cần trả lại cho P nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án; 150.000 đồng là tiền thu giữ của D, số tiền này được xác định là tiền thu nhập hợp pháp của D, cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận K đã ra quyết định trả lại D số tiền 150.000 đồng là đúng quy định; Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 1202 màu đen thu giữ của Hoàng Văn P, P đã sử dụng điện thoại này để liên lạc với D trong việc mua bán chất ma túy cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng, 01 ví da màu đen, 01 quần bò hiệu Diesel màu xanh thu giữ của Hoàng Văn P không liên quan đến vụ án, trả lại cho bị cáo P.

Đối với điện thoại di động Nokia 1280 vỏ màu xanh thu giữ của D là điện thoại mà D đã liên lạc với P để mua ma túy, hành vi của D chỉ bị xử lý hành chính do vậy trả lại D chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280 vỏ màu xanh.

Đối với xe mô tô hiệu Yamaha Jupiter biển kiểm soát 15B1-109.35, xác định là tài sản thuộc sở hữu của ông Hoàng Văn T (bố đẻ của Hoàng Văn P). Ông T không liên quan đến hành vi phạm tội của P nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận K đã ra quyết định trả lại cho ông Thắng là phù hợp.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Hoàng Văn P 09 năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ 21/6/2017.

Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Hoàng Văn P 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

Truy thu 500.000 đồng đối với Hoàng Văn P để sung quỹ Nhà nước.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong thì hàng tháng Hoàng Văn P còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chưa thi hành theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Áp dụng Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 41 Bộ luật Hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của D và Hoàng Văn P còn lại sau giám định. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 500.000 đồng thu giữ của P và 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 1202 màu đen. Trả lại Hoàng Văn P 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng, 01 ví da màu đen, 01 quần bò hiệu Diesel màu xanh, số tiền 478.000 đồng nhưng cần tạm giữ số tiền 478.000 đồng để đảm bảo thi hành án. Trả lại D 01 điện thoại di động Nokia 1280 vỏ màu xanh. Theo biên bản giao nhận vật chứng tại Chi cục Thi hành án dân sự quận K, thành phố Hải Phòng.

Bị cáo Hoàng Văn P phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

 “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2017/HSST ngày 14/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:39/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về