Bản án 390/2020/HS-ST ngày 14/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNHTH

BẢN ÁN 390/2020/HS-ST NGÀY 14/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 9 năm 2020 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 361/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 422/2020/QĐXXST- HS ngày 01 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Lưu Văn T - tên gọi khác: Không; sinh năm 1990 tại TH; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Xóm C, xã T, huyện P, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Sán Dìu; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 03/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông Lưu Văn T1 (đã chết) và con bà Tô Thị X, sinh năm 1944; Bị cáo có vợ là Trần Thị H, sinh năm 1987; Có 02 con, con lớn sinh năm 2013 và con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/4/2020 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa) - Người chứng kiến: Ông Nguyễn Đức T2, sinh năm 1978- trú tại tổ Z, phường T, thành phố TH (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 45 phút ngày 28/4/2020 tổ công tác Công an phường T, thành phố TH làm nhiệm vụ tại khu vực tổ X của phường thì phát hiện một nam thanh niên có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiếp cận kiểm tra, nam thanh niên chấp hành và tự khai tên là Lưu Văn T, đồng thời T tự giác giao nộp cho tổ công tác 02 gói giấy bạc màu trắng, bên trong đều chứa chất bột màu trắng mà T đang cầm ở lòng bàn tay phải. T khai nhận đó là Heroine. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra tổ công tác còn tạm giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen trắng đã qua sử dụng.

Cùng ngày, thi hành lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Lưu Văn T tại xóm Cầu Cong, xã T, huyện P không phát hiện thu giữ gì liên quan đến ma túy.

Tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của T có khối lượng 0,536 gam niêm phong ký hiệu T1 gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 611/KL -KTHS ngày 06/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu T1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,536 gam.

Quá trình điều tra, Lưu Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến.

Vật chứng của vụ án gồm:

+ 01 (một) bì niêm phong ký hiệu T1 bên trong chứa ma túy.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, đã cũ. Niêm phong bì ký hiệu L.

Bản Cáo trạng số 374/CT -VKSTPTN ngày 07 tháng 8 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH đã truy tố bị cáo Lưu Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa, Lưu Văn T khai nhận: Khoảng 15 giờ 10 phút ngày 28/4/2020, T đến nhà Nguyễn Văn P (bố của bạn T), sinh năm 1970 – trú tại xóm C, xã T, huyện P, tỉnh TH có chút việc. T có hỏi P chỗ bán ma túy để T mua vể sử dụng cho bản thân. Sau đó T đi xe Buýt đến khu vực tổ X, phường T thì T xuống xe và đi bộ vào khu vực nghĩa trang Ba Tổng mua của một nam thanh niên không quen biết 02 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa ma túy Heroine với giá 800.000đ. Mua xong T cầm 02 gói trên ở lòng bàn tay phải và đi về thì bị tổ công tác Công an phường T phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng theo quy định.

Trong lời luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Lưu Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt Lưu Văn T từ 24 đến 30 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong ký hiệu T1 (bì niêm phong chứa chất ma túy - mặt sau bì có 02 dấu của Phòng kỹ thuật hình sự -Công an tỉnh TH) + Tạm giữ 01điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, đã cũ. Niêm phong bì ký hiệu L của bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội.

Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay là hoàn toàn tự nguyện, khách quan và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản cân xác định khối lượng, biên bản mở niêm phong vật chứng, lời khai của những người tham gia tố tụng khác, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định:

Hồi 15 giờ 45 phút ngày 28/4/2020, tại khu vực tổ 11, phường T, thành phố TH, Lưu Văn T có hành vi tàng trữ 0,536 gam Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng.

Hành vi trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS

Nội dung điều luật:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a, b...

c, Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xét xử nghiêm minh để đảm bảo tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS. Mức án đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử cân nhắc hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS. Tại phiên tòa xác định bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi. Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án:

+ Cần tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong ký hiệu T1 (bì niêm phong chứa chất ma túy - mặt sau bì có 02 dấu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh TH).

+ Tạm giữ 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, số Imei 1: 353422090366120, số Imei 2: 353422090366127, đã cũ, niêm phong bì ký hiệu L của bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về nguồn gốc số Heroin bị thu giữ, bị cáo khai mua của một nam thanh niên không rõ lai lịch, địa chỉ tại khu vực nghĩa trang Ba Tổng thuộc tổ 11, phường T, thành phố TH. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân của người này, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Đối với Nguyễn Văn P, ban đầu T khai đã đưa cho T số tiền 800.000đ và nhờ T đi mua hộ ma túy Heroine và hứa nếu mua được ma túy sẽ trả công 200.000đ. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, lấy lời khai và cho đối chất giữa P và T. Tuy nhiên Nguyễn Văn P không thừa nhận việc đưa tiền nhờ T đi mua ma túy và trả công cho T nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH không có căn cứ xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự Tuyên bố: Bị cáo Lưu Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" 2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Lưu Văn T 30(Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/4/2020.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu T1 (bì niêm phong chứa chất ma túy - mặt sau bì có 02 dấu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh TH).

+ Tạm giữ 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, số Imei 1: 353422090366120, số Imei 2: 353422090366127, đã cũ, niêm phong bì ký hiệu L của bị cáo để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận số 424 ngày 10/8/2020 giữa Công an thành phố TH với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TH)

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lưu Văn T  phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 390/2020/HS-ST ngày 14/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:390/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về