TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 385/2019/HS-PT NGÀY 12/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12/7/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Tp. HCM, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 181/2019/TLPT-HS ngày 17/4/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 591/2019/QĐXXPT-HS ngày 24/6/2019, đối với bị cáo:
Bùi Văn S, (tên gọi khác K), sinh ngày: 27/4/1980; nơi sinh: Huyện P, tỉnh Long An; nơi cư trú: Ấp M, xã N, huyện P, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 08/12; con ông Bùi Văn M, sinh năm 1931 (đã chết) và bà Bùi Thị N, sinh năm 1942 (đã chết); có 07 anh, chị, em ruột: Lớn nhất sinh năm 1953; nhỏ nhất sinh năm 1982; có vợ tên Võ Thị Hồng K, sinh năm 1983 (ly hôn năm 2010); có 02 con: Bùi Trọng N, sinh năm 2005; Bùi Thị Hồng T, sinh năm 2006.
Tiền án, tiền sự: Không.
Tạm giữ ngày 03/02/2018, tạm giam ngày 06/02/2018 (Có mặt tại phiên tòa).
Người tham gia tố tụng khác:
Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Ông Nguyễn Trung Chánh
Địa chỉ: Văn phòng luật sư Trung Nguyên Quận P, thuộc Đoàn luật sư Tp. Hồ Chí Minh. (Có mặt tại phiên tòa)
Trong vụ án này còn có bị cáo Lê Thị Sa B không có kháng cáo, không bị kháng nghị, nên Tòa không triệu tập.
Người kháng cáo: Bị cáo Bùi Văn S.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm bị cáo có các hành vi phạm tội như sau:
Lúc 17 giờ 15 phút ngày 03/02/2018, tại nhà trọ số 160/2, Quốc lộ 1A, khu phố M, thị trấn N, huyện P, tỉnh Long An, cơ quan điều tra Công an tỉnh Long An bắt quả tang Bùi Văn S và Lê Thị Sa B đang bán trái phép 05 viên ma túy giá 800.000 đồng cho Nguyễn Quốc H. Khám xét tại nơi ở của Bùi Văn S thu giữ nhiều chất ma túy được giám định như sau:
Tại bản kết luận giám định số 895/C54B ngày 07/3/2018 của Phân viện khoa học hình sự tại TP Hồ Chí Minh và bản kết luận giám định số 2017/C54B ngày 14/6/2018 của Phân viện khoa học hình sự tại Tp. Hồ Chí Minh kết luận: Ma túy loại MDMA có khối lượng 3,2407gam.
Ma túy loại Ketamine: Khối lượng: 16,5992gam, hàm lượng 23,33%; khối lượng: 9,0682gam, hàm lượng 21,57%; khối lượng: 4,3008gam, hàm lượng 21,88%; khối lượng: 1,6141gam, hàm lượng 26,78%.
Tại bản kết luận giám định số 896/C54B ngày 20/3/2018 của Phân viện khoa học hình sự tại Tp. Hồ Chí Minh: Ma túy loại Methamphetamine, MDMA (02 chất) có khối lượng 2,59 gam; Ma túy loại Ketamine có khối lượng 33,95 gam, hàm lượng 3,40%; ma túy loại MDMA, Ketamine (02 chất) có khối lượng 66,45 gam, hàm lượng Ketamine 10,39%.
Tại bản kết luận giám định số 897/C54B ngày 07/3/2018 của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Long An: Ma túy loại Ketamine có khối lượng 28,96 gam, hàm lượng 1,9407%.
Tại bản kết luận giám định số 898/C54B ngày 13/02/2018 của Phân viện khoa học hình sự tại Tp. Hồ Chí Minh: Ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là 0,37 gam.
Tổng khối lượng ma túy qua kết luận giám định là 81,56 gam.
Tại bản kết luận giám định số 1341/C54B ngày 24/4/2018 của Phân viện khoa học hình sự tại Tp. Hồ Chí Minh kết luận các mẫu vật như vỏ hộp thuốc 55, 01 cân điện tử có kiểu gen trùng với gen của Bùi Văn S.
Qua quá trình điều tra, Bùi Văn S trong thời gian từ tháng 01/2017 đến ngày 03/02/2018, mua ma túy của các đối tượng gồm: Nguyễn Quốc C, mua 02 lần (01 lần 20 viên và 01 lần 30 viên), giá mỗi viên từ 180.000 đồng đến 200.000 đồng; mua ma túy của S1 không rõ địa chỉ (ở Tây Ninh), 01 lần 30 viên, giá mỗi viên 170.000 đồng; mua ma túy của S2 không rõ địa chỉ, 02 lần, mỗi lần 50 viên, giá từ 100.000 đồng đến 120.000 đồng; mua ma túy của M không rõ địa chỉ, 03 lần, mỗi lần 50 viên, giá từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng; mua ma túy của Nguyễn Hoàng V (Nhí B), mua khoảng 05 đến 06 lần, mỗi lần 50 viên, giá từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng. Số ma túy trên S trực tiếp bán và đưa Sa B cùng bán, mỗi viên giá từ 150.000 đồng đến 200.000 đồng.
Bùi Văn S trực tiếp bán ma túy cho các đối tượng sử dụng gồm:
Thời gian từ tháng 8 đến tháng 10/2017, Phạm Quốc H, tất cả 03 lần, mỗi lần từ 02 đến 03 viên, giá mỗi viên là 200.000 đồng.
Thời gian tháng 10/2017, Nguyễn Trung Đ (Sĩ Đ), 05 hoặc 06 lần, mỗi lần 02 – 05 viên, giá mỗi viên 150.000 đồng.
Thời gian tháng 8/2017, Phạm Minh L, 05 đến 07 lần, mỗi lần 04-05 viên, giá mỗi viên là 200.000 đồng.
Thời gian tháng 7/2017, Võ Hoàng N, 01 lần, 05 viên, giá mỗi viên 250.000 đồng.
Thời gian từ tháng 3 đến tháng 12/2017, Nguyễn Hữu Đ, 05 đến 07 lần, mỗi lần 02 đến 05 viên, giá mỗi viên từ 150.000 đồng đến 200.000 đồng.
Thời gian từ tháng 10/2017 đến 03/02/2018, Nguyễn Quốc H (C), 08 lần, mỗi lần 02 – 05 viên, mỗi viên 180.000 đồng. Nguyễn Quốc H khai nhận liên lạc với Bùi Văn S qua số điện thoại 0937 946 447 để mua ma túy.
Các đối tượng Nguyễn Quốc H, Phạm Quốc H, Võ Hoàng N, Phạm Minh L, Nguyễn Trung Đ, khai nhận có mua ma túy của S để sử dụng. Riêng Nguyễn Hữu Đ không thừa nhận mua ma túy của Bùi Văn S.
Ngoài ra, trong vụ này còn có Lê Thị Sa B là đối tượng sử dụng ma túy, sống chung như vợ chồng với Bùi Văn S từ tháng 8/2017 đến ngày bị bắt. Trong thời gian sống chung, Sa B phụ S bán ma túy, khi có đối tượng gọi điện hỏi mua ma túy thì S đồng ý và hẹn điểm bán, sau đó, S đưa ma túy cho Sa B đi bán trực tiếp cho các đối tượng như: Nguyễn Trung Đ (Sĩ Đ), Nguyễn Hữu Đ, Nguyễn Quốc H.
Vật chứng thu giữ như sau:
Số tiền 850.000 đồng; 03 điện thoại di động (01 điện thoại Samsung Galasy J7, 01 điện thoại Samsung Galasy J3 và 01 điện thoại Nokia 1034); 01 xe mô tô hiệu Wave màu xanh, biển kiểm soát 62K6-8840, số khung RRKWCHSUM5X007370, số máy VTTJL1P52FMH-7007370; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 cân điện tử hiệu Amput, ký hiệu NS3A-005256 (mẫu số 1341/C54B); 01 bộ dụng cụ phân chia ma túy được niêm phong mã số NS3A- 005252; 01 hộp nhựa bên trong chứa: 03 bộ dụng cụ dập viên có logo AB, LV, ký hiệu NS3A-005252; logo vương miệng, ký hiệu NS4A-010421; 30 gói nylon chưa sử dụng; 02 sổ tập học sinh có chữ viết có chữ ký của Bùi Văn S; 01 gói niêm phong ký hiệu NS4A-010415 chứa nhiều thanh kim loại sử dụng dập viên; 01 cái búa gỗ dài 31,5 cm, đầu 02 móc hình cong; 02 dao thép màu trắng đầu nhọn, lưỡi dài 20 cm, rộng 4,5 cm, cán dài 14,5 cm; 01 cái búa cán cây dài 37 cm, đầu bằng kim loại hình trụ, cao 10,5 cm, rộng 3,5 cm; 01 bóp da hiệu HERME; 01 thớt gỗ dày 03 cm, đường kính 25 cm, có nhiều dấu in hằng trên mặt thớt; 01 hộp nhựa màu trắng; 01 cái dĩa sứ màu trắng.
Mẫu vật còn lại sau khi giám định có trọng lượng: Mẫu số 898/C54B: 0,2316 gam Methamphetamine; Mẫu số 897/C54B: 24,6357 gam Ketamine; Mẫu số 895/C54B gồm: M1.1: 1, 7063 gam không tìm thấy chất ma túy; M1.2: không hoàn mẫu; M1.3: 1,6097 gam loại MDMA; M1.4: 8,2793 gam không tìm thấy chất ma túy; Mẫu M2.1: 16,0129 gam Ketamine; M2.3: 8,4959 gam Ketamine; M2.5: 3,9382 gam Ketamine; M2.9: 1,2455 gam Ketamine; Mẫu M2.2: 33,4250 gam; M2.4: 5058,4895 gam; M2.6: 0,7794 gam; M2.7: 0,7898 gam; M2.8: 9,8609 gam; đều không tìm thấy chất ma túy; Mẫu số 896/C54B gồm: M1: 2,21 gam Methamphetamine, MDMA; M2: 64,59 gam Ketamine, MDMA; M3: 32,30 gam Ketamine.
Vật chứng nêu trên đã được nhập vào kho theo Lệnh số 27 ngày 31/8/2018, 118 ngày 16/7/2018 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Long An.
Đối với xe mô tô hiệu Airblade màu đỏ đen, biển kiểm soát 49P1-003.18, số khung RLHJF4611EZ464850, số máy JF46E-70931037093103 do anh Võ Văn V, sinh năm 1991, nơi cư trú M, N, P, tỉnh Phú Yên làm chủ sở hữu, bị mất trộm ngày 10/01/2018, tại thành phố P, tỉnh Lâm Đồng. Cơ quan điều tra Công an tỉnh Long An ra quyết định xử lý vật chứng số 58/QĐ-CSĐT-PC47 ngày 11/5/2018 bàn giao cho Cơ quan điều tra Công an thành phố P, tỉnh Lâm Đồng xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 07/2019/HS-ST ngày 06/03/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã tuyên xử:
Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn S và Lê Thị Sa B phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 38, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Bùi Văn S 18 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/02/2018. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án 06/3/2019 để đảm bảo cho việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.
Ngoài ra, còn xử phạt bị cáo Lê Thị Sa B 07 năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày thi hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 03/02/2018 đến ngày 06/02/2018.
Án sơ thẩm còn giải quyết các vấn đề về tang vật, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 12/3/2019, bị cáo Bùi Văn S làm đơn kháng cáo, nêu lý do: Hoàn cảnh gia đình khó khăn, mức án sơ thẩm quá cao, có nhiều vấn đề bị cáo không đồng ý với kết luật điều tra và cáo trạng nhưng án sơ thẩm không xem xét, nay xin cấp phúc thẩm xem xét lại.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo S vẫn giữ yêu cầu kháng cáo xin được xem xét lại, giảm án cho bị cáo.
Luật sư Nguyễn Trung Chánh bào chữa cho bị cáo thì cho rằng bị cáo thành thật khai báo, ăn năn hối hận, nhân thân tốt, chưa tiền án tiền sự, hoàn cảnh gia đình khó khăn, con còn nhỏ, xin được giảm nhẹ mức án cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm cho rằng, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, số lượng ma túy bị bắt quả tang thu giữ được là 81,56 gam. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo là đúng người đúng tội có xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho bị cáo, nay bị cáo kháng cáo xin giảm án nhưng không đưa ra được những tình tiết gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo, nên không có cơ sở chấp nhận. Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, thẩm tra các chứng cứ tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, với phát biểu quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục kháng cáo:
Đơn kháng cáo của bị cáo Bùi Văn S làm trong hạn luật định nên thủ tục kháng cáo hợp lệ.
[2] Về nội dung giải quyết yêu cầu kháng cáo:
[2.1] Ngày 03/02/2018, Bùi Văn S và Lê Thị Sa B bị bắt quả tang đang thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy tại nhà thuê số 160/2, Quốc lộ 1A, khu phố M, thị trấn N, huyện P, tỉnh Long An. Qua quá trình điều tra, Bùi Văn S khai nhận trong thời gian từ tháng 01/2017 đến ngày 03/02/2018, mua ma túy và bán cho các đối tượng trên địa bàn huyện H, huyện P, tỉnh Long An. S trực tiếp bán và đưa Sa B cùng bán ma túy, mỗi viên giá từ 150.000 đồng đến 200.000 đồng. Ngoài ra trước khi bị bắt quả tang các bị cáo đã có bán ma túy cho các đối tượng sử dụng như những người làm chứng khai trong quá trình điều tra.
[2.2] Theo quy định tại điểm b, khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định: “Mua bán trái phép các chất ma túy gồm: Methafetamin, MDMA, Ketamene ... khối lượng từ 30gam đến 100gam thì bị xử phạt từ 15 năm tù đến 20 năm tù”.
[2.3] Đối chiếu với trường hợp phạm tội của bị cáo S thì thấy: Cơ quan điều tra Công an tỉnh Long An khám xét nơi ở của S, tịch thu số lượng ma túy được kết luận giám định là chất ma túy loại Methamphetamine, MDMA, Ketamine, tổng khối lượng là 81,56 gam.
Tòa án cấp sơ thẩm đã có xem xét đến hành vi, hậu quả, mức độ phạm tội của bị cáo cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ khác khác như: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn, xử phạt bị cáo với mức án 18 năm tù là thỏa đáng, không nặng.
[2.4] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm án, nhưng cũng không đưa ra được những tài liệu, chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo, nên cấp phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận.
[2.5] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.
[3] Về án phí hình sự sơ thẩm:
Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo S phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo luật định.
Vì các lẽ trên.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự
QUYẾT ĐỊNH
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Bùi Văn S, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
1/ Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 38, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Bùi Văn S 18 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/02/2018.
2/ Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Bùi Văn S chịu số tiền 200.000 đồng.
3/ Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.
4/ Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 385/2019/HS-PT ngày 12/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 385/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về