Bản án 383/2019/HS-ST ngày 01/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNH TH

BẢN ÁN 383/2019/HS-ST NGÀY 01/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 01 tháng 8 năm 2019 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 395/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 401/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Viết T - tên gọi khác: Không; sinh năm 1984 tại TH; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm T, xã Đ, thành phố TH, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông Nguyễn Viết S (đã chết) và con bà Phạm Thị T1, sinh năm 1947; Bị cáo có vợ Lương Thị A, sinh năm 1985, có 01 con sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không;

Hiện bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH từ ngày 29/5/2019 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa)

- Người chứng kiến: Ông Trần Văn S, sinh năm 1958 - trú tại tổ X, phường P, thành phố TH (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ 40 phút ngày 29/5/2019, tổ công tác Công an phường P, thành phố TH tuần tra kiểm soát tại khu vực tổ X của phường phát hiện 01 nam thanh niên có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, nam thanh niên khai tên Nguyễn Viết T, qua kiểm tra phát hiện ở túi quần bò phía trước bên trái T đang mặc có 01gói nilon màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng, T khai là Heroin mua về để sử dụng cho bản thân. Khi chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong thu giữ vật chứng theo quy định.

Cùng ngày tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của T có khối lượng 0,18 gam và lấy toàn bộ cho vào bì niêm phong ký hiệu T1 gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 865/KL-KTHS ngày 07/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu T1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,18gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Viết T khai nhận: Bản thân nghiện ma túy, khoảng 12 giờ ngày 29/5/2019, T bắt xe ôm từ nhà đến bến xe khách TH mục đích để mua ma túy, mục đích sử dụng cho bản thân. T đã mua của một người phụ nữ (không biết lai lịch địa chỉ) 01 (một) gói Heroine với giá 100.000đ. Sau đó T đi xe ôm về khu vực xí nghiệp nước sạch Tích Lương thuộc tổ X, phường P rồi xuống xe đi bộ xuống vườn chuối gần đường để sử dụng, thì bị tổ công tác phát hiện kiểm tra và lập biên bản.

Vật chứng của vụ án:

- 01 bì niêm phong ký hiệu T1(là Heroine hoàn lại sau giám định)

Bản Cáo trạng số 396/CT-VKSTPTN ngày 15 tháng 7 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH đã truy tố bị cáo Nguyễn Viết T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa hôm nay Nguyễn Viết T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến.

Trong lời luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Viết T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt Nguyễn Viết T từ 18 đến 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu T1 Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội.

Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay là hoàn toàn tự nguyện, khách quan và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản cân xác định khối lượng, biên bản mở niêm phong vật chứng, lời khai của những người tham gia tố tụng khác, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định:

Hi 13 giờ 40 phút ngày 29/5/2019, tại tổ X, phường P, thành phố TH, Nguyễn Viết T có hành vi tàng trữ 0,18 gam Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng.

Hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a, b...

c, Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam.

Vin kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Vì vậy cần phải xét xử bị cáo với mức án phù hợp với hành vi bị cáo gây ra, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn, ăn năn hối cải đã khai nhận hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc mức hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS. Tuy nhiên xác định bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi. Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án:

- Cần tịch thu tiêu huỷ toàn bộ 01 bì niêm phong ký hiệu T1.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về nguồn gốc số Heroin bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người phụ nữ không quen biết. Do không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Viết T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" 2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Viết T 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/5/2019.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu huỷ 01 bì niêm phong ký hiệu T1 bên trong chứa ma túy (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận số 437 ngày 19/7/2019 giữa Công an thành phố TH với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TH)

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Viết T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 383/2019/HS-ST ngày 01/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:383/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về