TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN
BẢN ÁN 38/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2021/HSST, ngày 27 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2021/QĐXXST-HS, ngày 16 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Nông Văn N (Tên gọi khác: Không) - Sinh ngày 10/8/1990 tại huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Th, xã M, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 0/12 (không biết chữ); dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nông Văn T và bà Lộc Thị T (bà Th đã bỏ đi khỏi địa phương từ năm 1990, nay không biết ở đâu); vợ là Nguyễn Thị Hồng H và 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã M, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, không được đi học và sinh sống cùng bố đẻ tại thôn Th, xã M đến năm 2017 thì lập gia đình và sinh sống tại địa phương cho đến nay. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 29/01/2021 đến ngày 04/02/2021 thì được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Hồng H, sinh năm 1994. Trú tại: Thôn T, xã M, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt.
* Người chứng kiến:
- Anh Nông Văn D, sinh năm 1992. Vắng mặt.
- Anh Nông Văn H, sinh năm 1972. Vắng mặt.
Đều trú tại: Thôn B, xã M, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 23h ngày 29/01/2021 tại thôn B, xã M, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, tổ công tác Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Ba Bể phối hợp với Công an xã M, huyện Ba Bể lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nông Văn N về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ và niêm phong 08 (tám) gói ma túy, loại heroine vào phong bì ký hiệu A1(Tiến hành cân xác định khối lượng được là 0,39 gam, niêm phong 0,39 gam chất bột màu trắng vào phong bì ký hiệu B1 gửi giám định); tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu MOBELL; 01 xe mô tô BKS 97B1-777.27.
Tại cơ quan điều tra Nông Văn N khai nhận: Bản thân là người nghiện ma túy nên khoảng 20h30’ ngày 29/01/2021, Nông Văn N điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 97B1 – 777.27 đi từ thôn Th, xã M, huyện Ba Bể đến huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn chơi và tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến đỉnh Đèo Gió thuộc huyện Ngân Sơn, N nhìn thấy một người đàn ông không quen biết có biểu hiện là người nghiện chất ma túy đứng ở cạnh đường nên dừng xe vào hỏi mua ma túy, trước khi mua N xin người đàn ông dùng thử một phần nhỏ, sau khi dùng thử N đưa cho người đàn ông số tiền 4.500.000 đồng (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng) được 01 gói bên trong có 08 gói nhỏ ma túy. Mua được ma túy N cất vào túi áo đang mặc rồi điều khiển xe đi về. Trên đường về đến thôn B V, xã M, huyện Ba Bể thì bị tổ công tác Công an huyện Ba Bể cùng Công an xã M, huyện Ba Bể kiểm tra hành chính, N đã khai báo đang cất giữ ma túy trong túi áo, tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ 01 gói bên trong có 08 gói nhỏ ma túy dạng bột màu trắng có khối lượng là 0,39 g (Không phẩy ba chín gam).
Tại Kết luận giám định số: 51/KTHS-MT ngày 03/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu B1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,39g (không phẩy ba chín gam).
Tại bản cáo trạng số: 32/CT-VKSBB ngày 25/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Nông Văn N về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015;
Điều luật có nội dung:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
a)....
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR - 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam;
.............
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể giữ nguyên nội dung truy tố đối với bị cáo. Đề nghị tuyên bố bị cáo Nông Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; Điều 38; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo N từ 12 đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 29/01/2021 đến ngày 04/02/2021. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47/BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 29, 33, 37 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 244 của Bộ luật dân sự.
- Tịch thu, tiêu hủy: 01(một) phong bì mẫu hoàn trả đã niêm phong ký hiệu T51 bên trong có chứa: Mẫu chất trong phong bì niêm phong ký hiệu B1 còn lại là 0,35 gam (không phẩy ba năm gam) cùng phong bì, bao gói cũ; 01(một) phong bì ký hiệu B2 bên trong có chứa toàn bộ giấy gói chất ma túy thu được và phong bì niêm phong cũ.
- Trả lại cho Nông Văn N: 01 (một) điện thoại di động có bàn phím, màu đen, nhãn hiệu MOBELL, đã qua sử dụng. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.
- 01(một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda BLADE, màu đỏ đen, BKS 97B1 - 777.27, tên chủ xe Nguyễn Thị Hồng H, xe đã qua sử dụng là tài sản chung của vợ chồng Nông Văn N và chị Nguyễn Thị Hồng H, bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội. Tịch thu 1/2 giá trị của xe mô tô sung quỹ Nhà nước. 1/2 giá trị của xe mô tô còn lại trả lại cho chị Nguyễn Thị Hồng H.
* Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Bị cáo N thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như Viện kiểm sát truy tố. Đối với xe mô tô BKS 97B1-777.27, bị cáo nhất trí với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là tịch thu 1/2 giá trị của xe mô tô để sung quỹ Nhà nước, 1/2 giá trị của xe mô tô còn lại trả lại cho chị Nguyễn Thị Hồng H.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Hồng H nhất trí với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là tịch thu 1/2 giá trị của xe để sung quỹ Nhà nước,1/2 giá trị của xe mô tô còn lại trả lại cho chị Nguyễn Thị Hồng Hạnh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo N đều khai: Hồi 23h ngày 29/01/2021 tại khu vực thôn BV, xã M, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, Nông Văn N đã có hành vi cất giữ, cất giấu bất hợp pháp 0,39 gam (Không phẩy ba mươi chín gam) chất ma túy (loại Heroine). Mục đích Nông Văn N tàng trữ trái phép chất ma túy là phục vụ cho nhu cầu sử dụng chất ma túy của bản thân, ngoài ra không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy.
Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy có đủ căn cứ xác định việc truy tố, xét xử bị cáo Nông Văn Nin về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Xét tính chất hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy, làm gia tăng tội phạm, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương, cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[3]. Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo thấy: Bị cáo Nông Văn N có nhân thân tốt. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có bố đẻ là Nông Văn T đã có công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng nhì nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự.
[4]. Về nguồn gốc số ma túy, bị cáo N khai mua với một người đàn ông không quen biết tại đỉnh Đèo Gió thuộc huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn vào hồi 21h 30’ ngày 29/01/2021, nhưng do N không biết họ, tên, địa chỉ của người đàn ông này nên không có cơ sở để điều tra xác minh.
[5]. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Hồng H: Quá trình điều tra, xác minh làm rõ chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda BLADE, màu đen đỏ, BKS 97B1 - 777.27, tên chủ xe Nguyễn Thị Hồng H do Công an tỉnh Bắc Kạn cấp ngày 23 tháng 8 năm 2018. Chị H khai nguồn gốc số tiền mua xe là của chị lao động có được, bị cáo N không có đóng góp gì, chị H thừa nhận chị và bị cáo N chung sống từ năm 2015 và đăng ký kết hôn vào năm 2017 chung sống đến nay, quá trình chung sống không có thỏa thuận về tài sản chung và riêng. Đồng thời, quá trình sử dụng xe, cả hai cùng sử dụng chung làm phương tiện đi lại, ngày 29/01/2021, bị cáo N sử dụng xe để đi mua ma túy và tàng trữ bất hợp pháp thì chị H không biết. Như vậy, xét về nguồn gốc, quá trình sử dụng thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda BLADE BKS 97B1- 777.27 là tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân của Nông Văn N và Nguyễn Thị Hồng H, xác định là tài sản chung của vợ chồng. Ngày 29/01/2021, N sử dụng chiếc xe mô tô này làm phương tiện để đi mua và tàng trữ trái phép chất ma túy cần tịch thu, hóa giá sung quỹ Nhà nước 1/2 giá trị của chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda BLADE, màu đen đỏ, BKS 97B1- 777.27, tên chủ xe Nguyễn Thị Hồng H. 1/2 giá trị của xe mô tô còn lại được trả lại cho chị Nguyễn Thị Hồng H.
[6]. Về vật chứng:
- 01 (một) phong bì mẫu hoàn trả đã niêm phong ký hiệu T51 bên trong có chứa: Mẫu chất trong phong bì niêm phong ký hiệu B1 còn lại là 0,35 gam (không phẩy ba năm gam) cùng phong bì, bao gói cũ; 01 (một) phong bì ký hiệu B2 bên trong có chứa toàn bộ giấy gói chất ma túy thu được và phong bì niêm phong cũ – tất cả không có giá trị, tịch thu tiêu hủy.
- Trả lại cho Nông Văn N: 01 (một) điện thoại di động có bàn phím, màu đen, nhãn hiệu MOBELL, đã qua sử dụng. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.
- 01(một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda BLADE, màu đen đỏ, BKS 97B1 - 777.27, tên chủ xe Nguyễn Thị Hồng H, xe đã qua sử dụng là tài sản chung của vợ chồng Nông Văn N và chị Nguyễn Thị Hồng H, bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội. Tịch thu 1/2 giá trị của xe mô tô sung quỹ Nhà nước. 1/2 giá trị của xe mô tô còn lại trả lại cho chị Nguyễn Thị Hồng H.
[7]. Hình phạt bổ sung: Xét thấy cần phạt bị cáo một khoản tiền để đảm bảo sự răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung, nên Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[8]. Về án phí: Căn cứ Điều 136/BLTTHS; Điều 23 - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
* Tuyên bố bị cáo: Nông Văn N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
* Căn cứ điểm c, Khoản 1, Khoản 5, Điều 249; Điều 38; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nông Văn N: 12 (Mười hai) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 29/01/2021 đến ngày 04/02/2021.
* Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Nông Văn N 5.000.000đ (Năm triệu đồng) để nộp ngân sách Nhà nước.
* Về vật chứng: Áp dụng Điều 47/BLHS; Điều 106/BLTTHS; Điều 29, Điều 33, Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 244 của Bộ luật dân sự.
- Tịch thu tiêu hủy: 01(một) phong bì mẫu hoàn trả đã niêm phong ký hiệu T51 bên trong có chứa: Mẫu chất trong phong bì niêm phong ký hiệu B1 còn lại là 0,35 gam (không phẩy ba năm gam) cùng phong bì, bao gói cũ; 01 (một) phong bì ký hiệu B2 bên trong có chứa toàn bộ giấy gói chất ma túy thu được và phong bì niêm phong cũ.
- Trả lại cho Nông Văn N: 01 (một) điện thoại di động có bàn phím, màu đen, nhãn hiệu MOBELL, đã qua sử dụng. Nhưng tạm giữ để thi hành án cho bị cáo.
- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 1/2 giá trị 01(một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda BLADE, màu đen đỏ, BKS 97B1 - 777.27, tên chủ xe Nguyễn Thị Hồng H, xe đã qua sử dụng. 1/2 giá trị chiếc xe còn lại trả lại cho chị Nguyễn Thị Hồng H.
(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 27/8/2021 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ba Bể và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Bể)
* Về án phí: Căn cứ Điều 136/BLTTHS; Điều 23 - Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nông Văn N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án ./
Bản án 38/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 38/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ba Bể - Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về