Bản án 38/2020/HS-ST ngày 01/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ H N,TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 38/2020/HS-ST NGÀY 01/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 01 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã H N, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 38/2020/TLST-HS, ngày 12 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2020/QĐXXST-HS, ngày 18 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Lâm Quốc T, sinh ngày 06/10/2001, tại Đồng Tháp; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp An Hòa, xã An B A, thị xã HN, Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1968 và bà Lâm Thị Mỹ C, sinh năm 1964; Vợ, con: Chưa có; Anh, em ruột: Có 02 người, bị cáo là con út trong gia đình; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Tạm giữ: Ngày 02/6/2020 đến ngày 05/6/2020 hủy bỏ biện pháp Tạm giữ; Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Phan Hiếu N, sinh năm 1966 (có đơn xin xét xử vắng mặt); Nơi cư trú: Ấp An Thọ, xã AP, huyện TH, tỉnh Đồng Tháp.

- Người làm chứng:

1. Văn Công N, sinh năm 1975 (vắng mặt);

Nơi cư trú: Ấp 2, xã ABB, thị xã HN, tỉnh Đồng Tháp.

2. Đỗ Văn L, sinh năm 1977 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Ấp 1, xã ABB, thị xã HN, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Lâm Quốc T là đối tượng nghiện ma túy, bản thân không có nghề nghiệp, do muốn nhanh có tiền tiêu xài cá nhân nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của người khác đem đi tiêu thụ.

Vào khoảng 03 giờ 00 phút, ngày 02/6/2020 T gặp người bạn tên K và nhờ K điều khiển xe mô tô chở T đến khu vực ấp 2, xã ABB, thị xã HN để lấy xe của anh T mang về nhưng thực chất là lấy trộm xe mô tô của những người làm thuê trong các ao nuôi cá, đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. K đồng ý, khi đến ấp 2, xã ABB, T kêu K dừng xe còn T đi vào khu vực nuôi cá lấy trộm xe mô tô mang biển kiểm soát 64F6-0620 của anh Phan Hiếu N rồi kêu K dòng xe về nhà người anh để lấy chìa khóa nhưng thực chất là xe do T trộm, khi đi được khoảng 200m, T kêu K về trước còn T ở lại sử dụng chìa khóa số và cây đoản bằng kim loại chuẩn bị sẵn thảo gỡ biển số xe 64F6-0620 vứt bỏ xuống sông rồi điều khiển xe về nhà thuộc ấp An Hòa, xã ABB, thị xã HN cất giấu. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, T gắn biển số xe 66L5-2822 vào xe mô tô vừa trộm cắp được đi tiêu thụ thì bị lực lượng tuần tra phát hiện T cùng với tang vật.

Cùng ngày 02/6/2020 Nguyễn Lâm Quốc T bị bắt khẩn cấp về hành vi trộm cắp tài sản.

Trong quá trình điều tra Nguyễn Lâm Quốc T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng vụ án, Cơ quan điều tra đã thu giữ:

- 01 (Một) xe mô tô hiệu FANLIM, màu nâu, số máy 150 FMG 01573218, số khung NJ100-20020158;

- 01 (Một) biển kiểm soát xe mô tô mang số 66L5-2822;

- 01 (Một) khóa số 10 bằng kim loại màu trắng, có in chữ YETI USA Standard;

- 01 (Một) đoạn kim loại màu đen có tổng chiều dài 08cm, phần đầu dẹp của đoạn kim loại có chiều dài 05cm, phần đuôi hình lục giác có chiều dài 03cm.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 26/KL-HĐĐG ngày 04/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu FanLim màu nâu, số máy 150FMG-01573218 số khung NJ100-20020158, Giá trị thiệt hại 2.500.000đồng.

Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Quyết định xử lý vật chứng trao trả bị hại Phan Hiếu N xe mô tô nhãn hiệu FanLim màu nâu, số máy 150FMG-01573218 số khung NJ100-20020158.

Về dân sự: Bị hại nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì khác đồng thời yêu cầu xử lý hành vi phạm tội của bị cáo theo quy định pháp luật.

Tại bản cáo trạng số: 41/CT-VKS-HS, ngày 10 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã HN, tỉnh Đồng Tháp truy tố bị cáo Nguyễn Lâm Quốc T về tội “Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã HN thực hành quyền công tố khẳng định hành vi của bị cáo Nguyễn Lâm Quốc T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Lâm Quốc T về tội: “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Lâm Quốc T từ 09 tháng đến 01 năm tù.

Đối với đối tượng Lê Văn K, sinh ngày 12/6/2000, ngụ ấp An Hòa, xã An B A, thị xã HN là người điều khiển xe mô tô chở T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, khi nhờ K chở, T nói đi lấy xe dùm cho anh của T chứ không nói đi trộm cắp tài sản. Hiện nay K không có mặt tại địa phương, đi đâu làm gì không rõ, nên Cơ quan điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc chứng minh được vai trò đồng phạm trộm sẽ xử lý theo quy định, nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) biển kiểm soát xe mô tô mang số 66L5-2822; 01 (Một) khóa số 10 bằng kim loại màu trắng, có in chữ YETI USA Standard; 01 (Một) đoạn kim loại màu đen có tổng chiều dài 08cm, phần đầu dẹp của đoạn kim loại có chiều dài 05cm, phần đuôi hình lục giác có chiều dài 03cm.

Về trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra, bị hại đã nhận lại tài sản bị mất và không yêu cầu bồi thường về dân sự đối với bị cáo Nguyễn Lâm Quốc T, nên không đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Lâm Quốc T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, bị cáo thống nhất với nội dung luận tội của Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Lâm Quốc T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà mình đã thực hiện. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo đã nghiện ma túy nhiều năm, không có nghề nghiệp ổn định nhưng lại muốn nhanh có tiền để sử dụng ma túy thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo đã nãy sinh ý định đi trộm tài sản của người khác. Để thực hiện ý định trên, bị cáo đi tìm kiếm những nơi có tài sản mà không có người trông coi, chuẩn bị sẵn các công cụ để thực hiện việc lấy trộm tài sản, bị cáo đã lợi dụng sự thiếu quản lý tài sản của bị hại anh Phan Hiếu N để thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt của bị hại 01 xe mô tô nhãn hiệu Fanlim màu nâu của anh N, sau khi lấy trộm được tài sản của bị hại, bị cáo đã tháo bỏ biển kiểm soát xe của xe trộm được và gắn biển kiểm soát khác mà bị cáo đã chuẩn bị sẵn để tránh bị phát hiện, sau đó đem tài sản trộm được bán để lấy tiền mua ma túy sử dụng.

Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số: 26/KL-HĐĐG ngày 04/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu FanLim màu nâu, số máy 150FMG-01573218 số khung NJ100-20020158, mà bị cáo chiếm đoạt của bị hại, giá trị thiệt hại 2.500.000 đồng.

Căn cứ vào lời thừa nhận của bị cáo, lời khai của bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy đã có đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Lâm Quốc T đã phạm tội: "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát.

Điều 173. Tội trộm cắp tài sản:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…” Tội phạm mà bị cáo gây ra đã xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác mặt khác còn làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Hiện nay tình hình trộm cắp trên cả nước nói chung và trên địa bàn thị xã HN nói riêng xảy ra ngày càng nhiều với thủ đoạn hết sức tinh vi. Nhằm để ổn định trật tự trị an ở địa phương, góp phần vào công cuộc phòng, chống và ngăn ngừa tội phạm, Hội đồng xét xử xét thấy phải xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình (điểm s), phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng (điểm i).

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy phải xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống cộng đồng một thời gian nhất định, để có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục cho bị cáo thấy được lỗi lầm của mình, phấn đấu trở thành con người tốt có ích cho gia đình và xã hội. Có như thế mới thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời cũng nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho những ai có ý định phạm tội như bị cáo.

[5] Đối với đối tượng Lê Văn K, sinh ngày 12/6/2000, ngụ ấp An Hòa, xã An B A, thị xã HN là người điều khiển xe mô tô chở T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, khi nhờ K chở, T nói đi lấy xe dùm cho anh của T chứ không nói đi trộm cắp tài sản. Hiện nay K không có mặt tại địa phương, đi đâu làm gì không rõ, nên Cơ quan điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc chứng minh được vai trò đồng phạm trộm sẽ xử lý theo quy định, nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

[6] Về vật chứng:

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu FanLim màu nâu, số máy 150FMG- 01573218 số khung NJ100-20020158 mà bị cáo chiếm đoạt của bị hại Phan Hiếu N, trong gia đoạn điều tra, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho bị hại Phan Hiếu N, bị hại đã nhận lại tài sản. Xét thấy, việc xử lý vật chứng của Cơ quan điều tra phù hợp với quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

Đối với biển số xe 64F6-0620 của chiếc xe mà bị cáo trộm, bị cáo tháo bỏ biển số vứt bỏ xuống sông. Trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không tìm được, nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

Đối với các công cụ liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo gồm: 01 (Một) biển kiểm soát xe mô tô mang số 66L5-2822; 01 (Một) khóa số 10 bằng kim loại màu trắng, có in chữ YETI USA Standard; 01 (Một) đoạn kim loại màu đen có tổng chiều dài 08cm, phần đầu dẹp của đoạn kim loại có chiều dài 05cm, phần đuôi hình lục giác có chiều dài 03cm, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra, bị hại Phan Hiếu N đã nhận lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Fanlim bị mất và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Từ các phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy nội dung luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ và phù hợp pháp luật.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để buộc bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Lâm Quốc T phạm tộiTrộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Lâm Quốc T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù và được trừ đi thời gian tạm giữ (từ ngày 02/6/2020 đến ngày 05/6/2020).

- Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy:

01 (một) biển kiểm soát xe mô tô mang số 66L5-2822; 01 (một) khóa số 10 bằng kim loại màu trắng, có in chữ YETI USA Standard; 01 (một) đoạn kim loại màu đen có tổng chiều dài 08cm, phần đầu dẹp của đoạn kim loại có chiều dài 05cm, phần đuôi hình lục giác có chiều dài 03cm.

(Tất cả các vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án Dân sự thị xã HN đang quản lý).

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Lâm Quốc T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 01/9/2020).

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2020/HS-ST ngày 01/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:38/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hồng Ngự - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về