Bản án 38/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN - TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 38/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn- tỉnh Hòa Bình. Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 143/2020/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 7 năm 2020 về tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2020/QĐXX-ST ngày 31 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị H, sinh năm 1989. Địa chỉ: xóm Ninh Sơn, xã Xuất Hóa, huyện Lạc Sơn, Hòa Bình. Vắng mặt theo đơn xin xét xử vắng mặt ngày 25/9/2020.

2. Bị đơn: Anh Phạm Quốc H, sinh năm 1989. Địa chỉ: xóm Ninh Sơn, xã Xuất Hóa, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Bùi Thị H trình bày:

Về tình cảm: Chị và anh Phạm Quốc H kết hôn từ năm 2010 trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc và đăng ký kết hôn tại UBND xã Xuất Hóa, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Sau đó, tổ chức kết hôn theo phong tục tập quán địa phương. Thời gian đầu chung sống, hai vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc, đến cuối năm 2019 thì hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh H có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác, hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không còn yêu thương, quan tâm chăm sóc nhau. Mặc dù đã được hai bên gia đình khuyên bảo động viên nhưng tình trạng không thay đổi khiến mâu thuẫn vợ chồng rất trầm trọng, tình cảm vợ chồng không có, đời sống chung không thể kéo dài. Vợ chồng đã ly thân từ đầu năm 2020. Cho đến thời điểm này, chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị được ly hôn với anh Phạm Quốc H.

Về con chung: Anh H và chị H có 02 con chung là cháu Phạm Thành V, sinh ngày 13/9/2010 và cháu Phạm Thị Ánh T, sinh ngày 04/9/2018. Vợ chồng ly thân, cả hai con chung đang được anh H và bố mẹ anh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Vợ chồng ly hôn chị H đề nghị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu T và đồng ý để anh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu V. Hai bên chưa phải cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về công nợ chung: Không có.

Ngoài ra chị H không có yêu cầu gì thêm.

Về phía anh Phạm Quốc H: Sau khi thụ lý vụ án,Tòa án đã gửi các các văn bản tố tụng: Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa nhưng không có kết quả, anh H vắng mặt không có lý do và cũng không có ý kiến về việc giải quyết vụ án gửi cho Tòa án.

* Tại biên bản xác minh ngày ngày 24/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn chính quyền địa phương nơi cư trú của chị Bùi Thị H và anh Phạm Quốc H có nội dung:

Anh Phạm Quốc H và chị Bùi Thị H kết hôn năm 2010 trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn hợp pháp tại UBND xã Xuất Hóa, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Sau đó tổ chức kết hôn theo phong tục tập quan địa phương. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến cuối năm 2019 thì hai vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất hòa. Nguyên nhân là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không còn tin tưởng, không yêu thương, quan tâm chăm sóc nhau, hai vợ chồng thường xuyên cãi vã, xung đột khiến mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng. Hai vợ chồng ly thân từ đầu năm 2020, khả năng đoàn tụ là rất khó Về con chung: Anh H và chị H có 02 con chung là cháu Phạm Thành V, sinh ngày 13/9/2010 và cháu Phạm Thị Ánh T, sinh ngày 04/9/2018. Hiện nay, bố mẹ anh H và anh H đang trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục cả hai con chung.

Về điều kiện nuôi con của Anh H và chị H:

- Xét về yếu tố nhân phẩm, đạo đức: Anh H và chị H luôn sống với hàng xóm, láng giềng vui vẻ, cởi mở, hòa đồng, không gây hiềm khích tại địa phương.

- Xét đến yếu tố kinh tế để nuôi con: Anh H và chị H đều có công việc chính là làm ruộng. Để kiếm thêm thu nhập, anh H và chị H còn đi làm thuê. Do đó, cả Anh H và chị H đều đủ điều kiện kinh tế để nuôi con.

- Về thời gian chăm sóc, nuôi dưỡng con: Thời gian làm việc của anh H và chị H không quá gò bó nên có đủ thời gian để dành cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về chỗ ở: Anh H và chị H có chỗ ở ổn định nên đủ điều kiện về chỗ ở để nuôi con Về sự có mặt/vắng mặt của anh Phạm Quốc H tại nơi cư trú: Kể từ khi Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn thụ lý vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” giữa nguyên đơn là chị Bùi Thị H và bị đơn là anh Phạm Quốc H đến nay anh H có mặt ở nơi cư trú. Tuy nhiên, Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn không tống đạt được các văn bản tố tụng cho anh H vì anh H từ chối nhận, không muốn hợp tác với Tòa án để giải quyết việc ly hôn. Anh H có quan điểm: Tòa án muốn giải quyết vụ ly hôn như nào thì tự giải quyết, anh H không biết và không liên quan tới việc đó.

*Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về tố tụng: Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình công nhận việc chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự của Thẩm phán, HĐXX và các đương sự từ khi thụ lý đến trước khi HĐXX nghị án.

Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: xác định mâu thuẫn giữa chị H và anh H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H.

- Về con chung: Đề nghị giao cháu Bùi Thị Ánh T cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Phạm Thành V cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H chưa đề nghị anh H cấp dưỡng nuôi con và anh H không có quan điểm gì về vấn đề cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn nên đề nghị HĐXX chưa xem xét vấn đề cấp dưỡng nuôi con trong vụ án.

Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về công nợ chung: Không có.

- Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án chị H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án hôn nhân và gia đình “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Bị đơn là anh Phạm Quốc H có hộ khẩu thường trú tại xóm Ninh Sơn, xã Xuất Hóa, huyện Lạc Sơn, Hòa Bình. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành thông báo và tống đạt đầy đủ các văn bản cho các bên đương sự theo quy định tại khoản 1 Điều 175 và khoản 1, 2 Điều 177 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định tại Điều 211 BLTTDS.

Tiến hành hòa giải theo quy định tại Điều 205 BLTTDS để hai bên thỏa thuận với nhau việc giải quyết vụ án. Anh H và chị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa, đã được đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt; Bị đơn là anh Phạm Quốc H đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt anh H và chị H.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh H được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống chị H và anh H không có hạnh phúc do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không còn tin tưởng lẫn nhau, thường xuyên xảy ra cãi vã, xung đột vì thế cuộc sống gia đình thường xuyên bất hòa. Từ những nhận định trên thấy mâu thuẫn giữa anh H và chị H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không thể đạt được nên HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H là phù hợp Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống, anh H và chị H có 02 con chung là cháu Phạm Thành V, sinh ngày 13/9/2010 và cháu Phạm Thị Ánh T, sinh ngày 04/9/2018. Hin nay, cả hai con chung đang được anh H và bố mẹ anh H trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục. Vợ chồng ly hôn chị H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục T và đồng ý để anh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu V, chị H chưa yêu cầu anh H thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, khi vợ chồng ly hôn mà có con chung đủ 7 tuổi trở lên thì Tòa án bắt buộc phải xem xét nguyện vọng của con. Trong quá trình giải quyết vụ án cháu Phạm Thành V trình bày nguyện vọng được ở với anh H khi bố mẹ ly hôn.

Theo quy định tại Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình. Trên cơ sở nguyên tắc này có thể hiểu người cha và người mẹ bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con cái trong thời kỳ tồn tại quan hệ hôn nhân và ngay cả khi quan hệ hôn nhân chấm dứt. Theo kết quả xác minh tại địa phương nơi cư trú của chị H và anh H: chị H và anh H hiện đang có mặt tại địa phương, điều kiện nuôi con là ngang nhau.

HĐXX nhận thấy cháu Phạm Thị Ánh T là con gái lại đang còn nhỏ (dưới 36 tháng tuổi), cần sự trông nom, chăm sóc, gần gũi của người mẹ; cháu Phạm Thành V đã có khả năng tự chăm sóc bản thân. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển về mọi mặt của con chung cần giao cháu Phạm Thị Ánh T cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; giao cháu Phạm Thành V cho anh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi khác.

[4] Vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Do chị H chưa đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn, anh H chưa có ý kiến trình bày về cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn nên HĐXX không xem xét là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 luật Hôn nhân và gia đình. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi đương sự có yêu cầu.

[5] Về tài sản chung: không yêu cầu; Về công nợ chung: không có nên HĐXX không xem xét.

[6] Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời gian luật định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; Điều 56; Điều 58; Điều 81 , 82, 83, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

1. Về hôn nhân: Chị Bùi Thị H được ly hôn với anh Phạm Quốc H.

2. Về con chung, cấp dưỡng: Giao con chung là Phạm Thành V, sinh ngày 13/9/2008 cho anh Phạm Quốc H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; giao cháu Phạm Thị Ánh T, sinh ngày 04/9/2018 cho chị Bùi Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Hai bên chưa phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung: kng yêu cầu; Về công nợ chung: không có nên HĐXX không xem xét.

5. Về án phí: Chị Bùi Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0003576 ngày 03/7/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn. Chị Bùi Thị H đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thì hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án, hoặc ngày niêm yết bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:38/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về