Bản án 38/2020/HNGĐ-ST ngày 20/07/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 38/2020/HNGĐ-ST NGÀY 20/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 20 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1032/2019/TLST-HNGĐ ngày 16/12/2019 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 44/2020/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị P – sinh năm 1958; Đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại: đường L, phường Ô, quận Đ, Thành phố Hà Nội (Có mặt).

- Bị đơn: Anh Phạm Đình T – sinh năm 1960; Đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại: đường L, phường Ô, quận Đ, Thành phố Hà Nội (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại Đơn khởi kiện đề ngày 03/12/2019 và các văn bản trình bày tại Tòa, nguyên đơn - chị Vũ Thị P trình bày:

Chị và anh Phạm Đình T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 02/9/1989 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện G, tỉnh Hà Bắc (nay là tỉnh Bắc Ninh).

Sau kết hôn đến nay, anh chị chung sống tại đường L, phường Ô, quận Đ, Thành phố Hà Nội.

Vợ chồng ngay từ thời gian đầu chung sống đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh chị không hợp nhau về tính cách và quan điểm, bất đồng về mọi vấn đề trong cuộc sống. Vợ chồng chị thường xuyên cãi vã, xúc phạm lẫn nhau và làm tổn thương nhau trầm trọng. Mâu thuẫn giữa hai bên kéo dài, đến khoảng mười năm trở lại đây thì mâu thuẫn rất căng thẳng, trầm trọng. Anh, chị đã sống ly thân từ năm 2010 đến nay. Nhiều năm nay anh chị chung sống lạnh nhạt, không có sự quan tâm, chăm sóc gì dành cho nhau.

Nay chị P xác định tình cảm vợ chồng không còn và do mâu thuẫn vợ chồng đã thực sự căng thẳng, trầm trọng kéo dài nhiều năm nên chị xin ly hôn anh T.

- Con chung: Chị P xác nhận vợ chồng có hai con chung là cháu Phạm Thị Diệu T, sinh ngày 16/4/1991 và cháu Phạm Phương A, sinh ngày 10/10/2000. Các con của anh chị đều đã thành niên và khỏe mạnh, chị không có yêu cầu gì.

- Tài sản chung (động sản, bất động sản): Chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị P trình bày chị và anh T không có khoản nợ nào chung (không vay nợ ai và không cho ai vay nợ) nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn - anh Phạm Đình T: Mặc dù trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ và niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng anh T đều vắng mặt, không đến Tòa thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa:

Chị Vũ Thị P vẫn giữ nguyên các ý kiến về việc ly hôn, về con chung, về tài sản chung và về nợ như chị đã trình bày ở trên.

Anh Phạm Đình T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án; các đương sự là đúng quy định của pháp luật.

Ý kiến quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội về việc giải quyết vụ án:

- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Vũ Thị P có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội giải quyết vụ án hôn nhân gia đình giữa chị và anh Phạm Đình T. Anh T có đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại phường Ô, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội; căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội.

Sau khi phân tích các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa đề nghị Hội đồng xét xử:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Thị P đối với anh Phạm Đình T. Con chung: Xác nhận chị P và anh T có 02 con chung là: Phạm Thị Diệu T, sinh ngày 16/4/1991 và Phạm Phương A, sinh ngày 10/10/2000. Các con của anh chị đều đã thành niên và khỏe mạnh nên không xét. Tài sản chung: chị P không yêu cầu giải quyết nên không xét. Về nợ chung: Chị P xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét. Án phí: Chị P phải nộp 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng dân sự: Anh Phạm Đình T có đăng ký hộ khẩu thường trú và hiện cư trú tại phường Ô, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. Chị Vũ Thị P có đơn xin ly hôn anh T tại Tòa án nhân dân quận Đống Đa; Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân quận Đống Đa thụ lý, giải quyết, xét xử là đúng thẩm quyền.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ và niêm yết các văn bản tố tụng cho anh T; anh T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh T. [2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị P và anh Phạm Đình T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 02/9/1989 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện G, tỉnh Hà Bắc (nay là tỉnh Bắc Ninh). Căn cứ Điều 3, Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình, quan hệ hôn nhân giữa chị P và anh T là hôn nhân hợp pháp.

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ cũng như lời trình bày của đương sự, người làm chứng trong vụ án thấy: Quá trình chung sống vợ chồng của chị P, anh T có phát sinh mâu thuẫn, cuộc sống không hạnh phúc, anh chị đã có thời gian dài sống ly thân, không quan tâm, không chăm sóc nhau.

Điều 19 Luật Hôn nhân nhân và gia đình quy định: “vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau…”. Anh chị sống ly thân, không quan tâm, không chăm sóc nhau, việc ai người đó làm, không có sự yêu thương, cảm thông. Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh T đến Toà để thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự và tham gia hoà giải theo quy định của pháp luật nhưng anh T đều vắng mặt; Toà án cũng tạo điều kiện về thời gian để anh chị chủ động hàn gắn tình cảm vợ chồng song từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến nay anh chị vẫn sống ly thân, không có biện pháp gì để cải thiện cuộc sống vợ chồng. Tại phiên tòa lần thứ hai anh T vẫn vắng mặt không có lý do, chứng tỏ anh không có thiện chí trong việc hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét thấy hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, với điều kiện, hoàn cảnh như hiện nay thì anh chị không có cuộc sống vợ chồng hạnh phúc; nhận định của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử, do vậy, căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị P. Anh T không đến Toà thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, không đưa ra ý kiến, quan điểm, không có biện pháp gì cải thiện tình cảm vợ chồng nên không có căn cứ để xem xét.

Con chung: Theo tài liệu có trong hồ sơ thể hiện chị P và anh T có 02 con chung là: Phạm Thị Diệu T, sinh ngày 16/4/1991 và Phạm Phương A, sinh ngày 10/10/2000; đều đã thành niên và khỏe mạnh nên Tòa án không xét.

Tài sản chung (động sản và bất động sản): Chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa không xem xét.

Về nợ chung: Chị P xác nhận quá trình chung sống vợ chồng anh chị không có khoản vay nợ nào chung, không yêu cầu Tòa giải quyết, Hội đồng xét xử không xét.

Án phí: Chị P phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Chị Vũ Thị P và anh Phạm Đình T được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự:

Căn cứ Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Thị P.

Chị Vũ Thị P được ly hôn anh Phạm Đình T.

2. Con chung: Xác nhận chị P và anh T có 02 con chung là Phạm Thị Diệu T, sinh ngày 16/4/1991 và Phạm Phương A, sinh ngày 10/10/2000 đều đã thành niên và khỏe mạnh nên Tòa án không xét.

3. Tài sản chung (động sản và bất động sản): Chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

4. Về nợ chung: Chị P xác nhận anh chị không có khoản vay nợ nào chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

5. Án phí: Chị Vũ Thị P phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0009608 ngày 13/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. Chị P đã nộp đủ tiền án phí.

Chị Vũ Thị P được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Phạm Đình T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2020/HNGĐ-ST ngày 20/07/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:38/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về