Bản án 38/2019/HS-ST ngày 26/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 38/2019/HS-ST NGÀY 26/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sơn La xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 34/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 4 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn C, sinh ngày 22 tháng 4 năm 1994 tại huyện M, thành phố Hà Nội; nơi đăng ký thường trú: Thôn L, xã M, huyện M, thành phố Hà Nội; chỗ ở hiện nay: Bản T, xã C, thành phố S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Đ; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/12/2018 đến nay. Có mặt.

2. Lò Văn T, sinh ngày 22 tháng 7 năm 1994 tại thành phố S, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản T, xã C, thành phố S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Lò Văn T và bà Quàng Thị D; bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 05/4/2017 Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy; tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/12/2018 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 15 phút ngày 19/12/2018, tổ công tác Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế, ma túy Công an thành phố Sơn La phối hợp với Công an xã C, thành phố Sơn La làm nhiệm vụ tại bản P, xã C, thành phố S, tỉnh Sơn La phát hiện, bắt quả tang Lò Văn T và Nguyễn Văn C đang cất giữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 02 gói nilon màu trắng, bên trong mỗi gói đều chứa chất cục, bột màu trắng (T lấy từ bên trong tất chân đang đi, giao nộp và khai nhận là Heroine, cất giữ để sử dụng chung).

Tạm giữ: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, biển kiểm soát 26B1- 57.886 màu nâu, đã qua sử dụng (T khai là xe mượn của chị Quàng Thị L ở cùng bản); 01 điện thoại di động của Lò Văn T, nhãn hiệu Nokia vỏ màu đen, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động của Nguyễn Văn C, vỏ màu xanh, mặt sau của máy có dòng chữ “LANDRDVER”, đã qua sử dụng.

Ngày 19/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu trưng cầu giám định. Kết quả cân tịnh:

- Số chất cục, bột màu trắng trong gói nilon màu trắng thứ nhất khối lượng là 0,06 gam. Lấy toàn bộ 0,06 gam làm mẫu gửi giám định, ký hiệu TC1.

- Số chất cục, bột màu trắng trong gói nilon màu trắng thứ hai có khốilượng là 0,14 gam. Lấy 0,04 gam làm mẫu gửi giám định, ký hiệu TC2, còn lại 0,1 gam lưu kho vật chứng, ký hiệu TC3.

Tại Kết luận giám định số 121 ngày 23/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu giám định ký hiệu TC1, TC2 đều là ma túy; loại Heroine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,20 gam; loại Heroine.

Quá trình điều tra, các bị cáo khai nhận: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày19/12/2018, tại bản T, xã C, thành phố S,  Nguyễn Văn C gọi điện thoại rủ Lò Văn T đi mua ma túy cùng sử dụng. T đồng ý và đi sang nhà chị Quàng Thị L ở cùng bản, mượn xe máy nhãn hiệu Honda Dream màu nâu, biển kiểm soát 26B1 - 57.886. T điều khiển xe máy đón C cùng đi đến bản T, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La. Đến bản T, C đưa cho T số tiền 300.000 đồng, T cầm tiền đi bộ vào trong bản, gặp và hỏi mua được của một nữ giới không biết họ, tên 02 gói Heroine được gói bằng nilon màu trắng với số tiền 300.000 đồng. T cất 02 gói Heroine vào trong tất chân đang đi, đi bộ ra chỗ C đang đợi ở xe máy, nói đã mua được ma túy. T điều khiển xe máy chở C về thành phố Sơn La tìm nơi cùng sử dụng ma túy. Khi đi đến khu vực ngã ba đường vào bản P, xã C, thành phố S thì bị tổ công tác Công an thành phố Sơn La và Công an xã C phát hiện, bắt quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng.

Về người bán ma túy, Lò Văn T khai mua của một nữ giới không quen biết, ngoài lời khai của Lò Văn T không còn chứng cứ nào khác chứng minh. Do đó, không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án.

Bản cáo trạng số 15/CT - VKSTP ngày 28/3/2019 của Viện kiểm sát nhân

dân thành phố Sơn La truy tố Nguyễn Văn C, Lò Văn T về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ nguyên cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố Nguyễn Văn C, Lò Văn T phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Nguyễn Văn C từ 15 tháng đến 20 tháng tù.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Lò Văn T từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong. Mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn T và Nguyễn Văn C. Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 19/12/2018. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 02 mảnh nilon màu trắng; mẫu lưu ký hiệu TC3 = 0,1 gam”.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di dộng của Lò Văn T, nhãn hiệu Nokia vỏ màu đen, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động của Nguyễn Văn C, vỏ màu xanh, mặt sau của máy có dòng chữ “LANDRDVER”, đã qua sử dụng.

Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La đã trả cho anh Lò Văn Phiên 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream màu nâu, biển kiểm soát 26B1 - 57.886.

3. Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Văn C và Lò Văn T nhất trí với cáo trạng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nh  hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quá trình tiến hành tố tụng:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi, vai trò trong đồng phạm và trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

 Tại phiên tòa, các bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra. Lời khai nhận tội của các bị cáo thể hiện: Ngày 19/12/2018, Nguyễn Văn C và Lò Văn T đã thực hiện hành vi cùng đi mua và cất giữ trái phép 0,20 gam Heroine để sử dụng chung. Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án gồm: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 13 giờ 25 phút ngày 19/12/2018 tại bản P, xã C, thành phố S đối với Nguyễn VănC, Lò Văn T; vật chứng thu giữ; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành  phố  Sơn  La  lập  ngày  19/12/2018;  Kết  luận  giám  định  số  121  ngày23/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; Biên bản kiểm tra thông tin trong 02 điện thoại di động thu giữ của Nguyễn Văn C, Lò Văn T; lời khai của người chứng kiến Lường Văn D.

Do vậy, có đủ cơ sở kết luận hành vi cất giữ trái phép 0,20 gam Heroine để sử dụng chung của Nguyễn Văn C và Lò Văn T là đồng phạm vào tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Trong đó: Nguyễn Văn C là người khởi xướng, đưa cho T số tiền mua ma túy 300.000 đồng, cùng T đi mua ma túy. Lò Văn T là người thực hành tích cực, tiếp nhận ý chí của C, đi mượn xe máy chở C cùng đi mua ma túy, là người trực tiếp mua và cất giữ ma túy. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố các bị cáo về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo xâm phạm chế độ quản lý chất ma túy của Nhà nước. Các bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy và hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cùng nhau thực hiện. Đồng phạm thuộc loại giản đơn. Tội phạm có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Xét cần xử phạt nghiêm khắc nhằm trừng trị, giáo dục các bị cáo, răn đe phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nh  trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo khai báo thành khẩn, được áp dụng tình tiết giảm nh  trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự .

Các bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy. Đối với Lò Văn T, năm 2017 bị kết án phạt tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích, lần phạm tội này của bị cáo thuộc T hợp tái phạm, cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Đối với Nguyễn Văn C, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

 [3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự: Các bị cáo đều có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[4] Về vật chứng của vụ án, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Đối với số ma túy 0,1 gam Heroine (còn lại sau khi lấy mẫu trưng cầu giám định) và vật liên quan không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 02 chiếc điện thoại di động thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn C và Lò Văn T, được xác định là phương tiện các bị cáo sử dụng liên lạc với nhau để phạm tội, cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream, biển kiểm soát …… màu nâu: Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Lò Văn P (Sinh năm 1969; trú tại: bản T, xã C, thành phố S, tỉnh Sơn La; là chồng của chị Quàng Thị L). Khi cho T mượn xe, anh P chị L không biết việc bị cáo T sử dụng xe đi mua ma túy. Ngày 16/01/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Sơn La đã trả chiếc xe trên cho anh Lò Văn P là đúng quy định của pháp luật. Anh Phiên, chị L không có ý kiến, yêu cầu gì khác.

[5] Về án phí:  Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn C, Lò Văn T phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

3. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lò Văn T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

4. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong. Mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn T và Nguyễn Văn C. Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 19/12/2018. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 02 mảnh nilon màu trắng; mẫu lưu ký hiệu TC3 = 0,1 gam”. Mặt sau phong bì trên giấy dán niêm phong có 01 dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La và 07 chữ ký, 07 dòng họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, đối tượng bị bắt, kiểm tra niêm phong còn nguyên 

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước:

- 01 (một) phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong. Mặt trước phong bì ghi: “Điện thoại thu giữ của Lò Văn T khi bị bắt quả tang ngày 19/12/2018 tại bản P - xã C – thành phố S – tỉnh Sơn La về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy”. Mặt sau phong bì trên giấy dán niêm phong có chữ ký và dòng họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, kiểm tra niêm phong còn nguyên v n.

- 01 (một) phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong. Mặt trước phong bì ghi: “Điện thoại thu giữ của Nguyễn Văn C khi bị bắt quả tang ngày 19/12/2018 tại bản P - xã C – thành phố S – tỉnh Sơn La về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy”. Mặt sau phong bì trên giấy dán niêm phong có chữ ký và dòng họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, kiểm tra niêm phong còn nguyên v n.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/4/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Buộc Nguyễn Văn C và Lò Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 26/4/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2019/HS-ST ngày 26/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:38/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về