Bản án 38/2019/HS-ST ngày 19/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 38/2019/HS-ST NGÀY 19/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 3 năm 2019, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 01 năm 2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Trọng H, sinh năm 1994, tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Nhà số 552/53/173, Khu phố 6, đường Q, phường B2, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (nhà đã bán và không còn cư trú tại đây từ năm 2006); nơi ở: Nhà số 79/2, Đường S4, Khu phố 7, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân H và bà Tống Thị T; có vợ và 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 07/9/2011, bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về “Tội cướp giật tài sản” (chấp hành xong hình phạt chính ngày 13/9/2012 và quyết định khác ngày 22/11/2011 và khi phạm tội chưa thành niên, án tích đã được xoá); ngày 11/12/2013, bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh phạt 03 năm tù về “Tội cướp giật tài sản” (chấp hành xong hình phạt chính ngày 21/01/2016 và quyết định khác ngày 02/4/2014, án tích đã được xoá); ngày 30/10/2017, bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Phường 15, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định đưa vào Cơ sở xã hội thanh thiếu niên 2 để quản lý cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đến ngày 08/01/2018 hủy quyết định này và chuyển sang quản lý, giáo dục địa phương do có nơi cư trú rõ ràng; bị bắt tạm giữ ngày 05-11-2018, tạm giam ngày 11-11-2018 “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ 40 phút ngày 05-11-2018, Công an phường Bình Hưng Hòa, quận Bình Tân đang trên đường tuần tra đến Tiệm game bắn cá số 501, đường H3, Khu phố 9, phường B, quận B thì nhìn thấy Nguyễn Trọng H có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, phát hiện và thu giữ trong túi quần phía trước bên phải của H có 08 gói nylon chứa tinh thể không màu và lúc đó H cho biết là ma túy loại “hàng đá” nên đưa H cùng vật chứng về Công an phường xử lý người có hành vi phạm tội quả tang. Tại Cơ quan điều tra, H khai do nghiện ma túy nên mới vừa mua 08 gói ma túy này của tên Tuấn (không rõ lai lịch) với giá 800.000 đồng tại Tiệm game bắn cá để dành sử dụng thì bị bắt giữ.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Trọng H khai nhận, do nghiện ma túy nên đã đến Tiệm game bắn cá số 501, Khu phố 9, đường H3, Khu phố 9, phường B, quận B mua 08 gói ma túy loại “hàng đá” của tên Tuấn (không rõ lai lịch) với giá 800.000 đồng để dành sử dụng dần thì bị Công an kiểm tra bắt giữ nên nay bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Đồng thời, bị cáo không có ý kiến gì về hàm lượng ma túy đã được giám định và việc giải quyết vật chứng.

Bản cáo trạng số 48/CT-VKS ngày 30 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Trọng H ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Nguyễn Trọng H đã có hành vi cất giữ số ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,5400g, loại Methamphetamine để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, đồng thời có nhân thân xấu nên cần phải xử lý bị cáo bằng một mức án thật nghiêm. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần được xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng đểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 02 năm đến 03 năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”; không áp dụng hình phạt bổ sung; còn về vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy gói niêm phong chứa ma túy đã giám định; giao trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động hiệu Itel có số sim 0931318011.

Bị cáo không tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra – Công an quận Bình Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Vào khoảng 10 giờ 40 phút ngày 05/11/2018, tại Tiệm game bắn cá số 501, đường H3, khu phố 9, phường B, quận B. Bị cáo Nguyễn Trọng H đã có hành vi cất giữ 08 gói nylon chứa tinh thể không màu nhằm mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Theo Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hồ Chí Minh thì, “Tinh thể không màu trong 08 gói nylon được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Trọng H, Huỳnh Thanh Sang (Điều tra viên), Lưu Ngọc Phát (người chứng kiến) và hình dấu Công an phường B, quận B” gửi đến giám định “là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,5400g, loại Methamphetamine”. Do đó, bị cáo Nguyễn Trọng H đã phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Trọng H tại Tòa hôm nay phù hợp với lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, biên bản niêm phong, mở niêm phong, kết luận giám định hàm lượng ma túy… nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và lời đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận. Đối với người bán ma túy cho bị cáo tên Tuấn, do không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra còn đang tiếp tục truy xét đến khi nào phát hiện được sẽ xử lý sau là phù hợp.

[3] Xét chất ma túy là loại chất kích thích do Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và mua bán. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai và vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo phạm tội nghiêm trọng, mang tính chất liều lĩnh, xem thường pháp luật, góp phần làm lan tràn nạn nghiện ngập trong đời sống cộng đồng, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, đồng thời có thể là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác và có nhân thân xấu. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự trong vụ án này với mức án tương xứng. Tuy nhiên tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp và không có điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Đối với 01 gói niêm phong, bên trong có 01 gói nylon đựng 08 gói nylon chứa tinh thể không màu, bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Trọng H và hình dấu Công an phường B, quận B, chữ ký của Điều tra viên Huỳnh Thanh Sang, người chứng kiến Lưu Ngọc Phát và Giám định viên là chất kích thích, Nhà nước cấm sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy. Riêng 01 chiếc điện thoại di động hiệu Itel, số sim 0931318011 của bị cáo, không liên quan gì đến vụ án nên cần giao trả lại cho bị cáo.

[6] Bị cáo Nguyễn Trọng H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng H phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về điều luật áp dụng và phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; phạt bị cáo Nguyễn Trọng H 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 05-11-2018.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong, bên trong có 01 gói nylon đựng 08 gói nylon chứa tinh thể không màu, bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Trọng H và hình dấu Công an phường B, quận B, chữ ký của Điều tra viên Huỳnh Thanh Sang, người chứng kiến Lưu Ngọc Phát và Giám định viên. Giao trả lại cho bị cáo Nguyễn Trọng H 01 chiếc điện thoại di động hiệu Itel, số sim 0931318011.

(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân đang tạm giữ theo Phiếu nhập kho số NK19/078TAM ngày 24/01/2019 )

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Nguyễn Trọng H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Trọng H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

331
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2019/HS-ST ngày 19/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:38/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về