Bản án 38/2019/HSST ngày 18/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 38/2019/HSST NGÀY 18/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 45/2019/HSST ngày 01 tháng 4 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo Lò Văn K; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh ngày: 4/10/1990 tại thị trấn I, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; nơi ĐKHKTT: Bản N, thị trấn I, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; con ông Lò Văn Lè; sinh năm: 1962 và bà Quàng Thị Lả; sinh năm: 1963; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không có; bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/12/2018 cho đến nay, có mặt.

2. Bị cáo Quàng Văn H; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh ngày: 1/1/1988 tại xã Tông Cọ, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi ĐKHKTT: Bản P, xã Tông Cọ, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; con ông Quàng Văn Nết; sinh năm: 1952 (Đã chết) và bà Quàng Thị Lả, sinh năm: 1954; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không có; bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/12/2018 cho đến nay, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Quàng Văn H: ông Cầm Trọng Thủy, trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 24/12/2018 Lò Văn K rủ Quàng Văn H đang ở chỗ làm thuê thuộc phường Tô Hiệu, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đi tìm mua ma túy về để cả hai cùng sử dụng. Sau đó, K và H thuê xe taxi nhãn hiệu KIA Morning, biển kiểm soát: 26A 057.22 do anh Trần Quốc Đ trú tại tổ 7, phường Quyết Thắng, Thành phố Sơn La điều khiển, đi lên xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu để tìm mua ma túy. Khi đến bản Thôm, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu. K, H xuống xe và bảo anh Đ dừng xe lại chờ, K đưa cho H số tiền 500.000 đồng để H đi mua ma túy. H cầm tiền K đưa rồi cùng K đi bộ vào trong bản Thôm xã Thôm Mòn, khi vào trong bản thì cả 2 gặp và mua được của một người phụ nữ dân tộc Thái ( K và H không biết tên và địa chỉ cư trú ) 01 gói Heroine gói bằng nilon màu trắng với giá 500.000 đồng. Sau khi mua được Heroine, H đưa gói Heroine cho K cầm, rồi đi đến chỗ anh Đ để quay về thành phố Sơn La. Khi H và K đi đến bản Nong Quang, xã Thôm Mòn thì bị tổ công tác Công an huyện Thuận Châu phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên. ( BL: 54 - 57;72 - 75 hồ sơ)

Tang vật thu giữ gồm: Một gói nilon màu trắng bên trong chứa chất bột cục màu trắng ( theo Khanh và Hoa khai là Heroine ); Một xe ô tô biển kiểm soát 26A 05722 nhãn hiệu KiA loại xe Morning, màu sơn trắng, số khung 106398, số máy 140451, xe đã qua sử dụng cũ. ( Gồm: Hai khoản ); ( BL: 01 – 04 hồ sơ ).

Hồi 08 giờ 00 phút ngày 25/12/2018, Công an huyện Thuận Châu phối hợp với Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành cân tịnh số bột cục màu trắng đã thu giữ nêu trên và xác định được khối lượng là 0,64 gam, trích rút: 0,10 gam ký hiệu K1 gửi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La để giám định chất ma túy. ( BL: 43 hồ sơ ). Tại Kết luận giám định số: 151/KLMT ngày 29/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám đinh ký hiệu K1 là chất ma túy; Loại chất Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. ( Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định ). Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ là 0,64 gam loại chất Heroine. ( BL: 45 hồ sơ ).

Tại phiên tòa, lời khai, lời trình bày ý kiến của các bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án như: biên bản hỏi cung bị can;

biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ, niêm phong, mở niêm phong vật chứng của vụ án để lấy mẫu giám định; kết luận giám định .

Bản cáo trạng số 46/CT- VKS ngày 29-3-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố các bị cáo Lò Văn K, Quàng Văn H về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lò Văn K, Quàng Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Lò Văn K, Quàng Văn H phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 53; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Lò Văn K. Đề nghị xử phạt bị cáo Lò Văn K từ 15 (mười lăm) tháng đến 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 24-12-2018 ( là ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo ).

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 53; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Quàng Văn H. Đề nghị xử phạt bị cáo Quàng Văn H từ 14 (mười bồn) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 24-12-2018 (là ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo).

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: một phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn K và đồng bọn – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 24-12-2018; K2=0,54 gam heroine; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu.

- Chấp nhận việc Cơ quan điều tra trả cho anh Trần Quốc Đ, địa chỉ: tiểu khu 17, thị trấn Hát Lót, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La 01 xe ô tô nhãn hiệu KIA Morning 26A 057.22

Án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Ý kiến của bị cáo Lò Văn K: bị cáo phạm tội lần đầu, sau khi phạm tội đã ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng lượng khoan hồng của pháp luật, áp dụng cho bị cáo mức phạt thấp nhất để bị cáo sớm được trở về xã hội, có cơ hội làm lại cuộc đời.

Ý kiến của luật sư bào chữa cho bị cáo Quàng Văn H và bị cáo Quàng Văn H: bị cáo phạm tội lần đầu, sau khi phạm tội đã ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng lượng khoan hồng của pháp luật, áp dụng cho bị cáo mức phạt thấp nhất để bị cáo sớm được trở về xã hội, có cơ hội làm lại cuộc đời.

Lời nói sau cùng của các bị cáo Lò Văn K, Quàng Văn H: Nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đề nghị truy tố, xét xử các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nay các bị cáo đã thực sự nhận ra lỗi lầm, rất ân hận, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi tàng trữ trái phép là 0, 64 gam ma túy loại heroine của các bị cáo Lò Văn K, Quàng Văn H nhằm mục đích sử dụng cho bản thân là vi phạm pháp luật. Bởi, các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 như quan điểm truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu.

Tại Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:

 “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………………………….

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

……………………………

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

[3] Xét vai trò đồng phạm và tính chất mức độ hành vi phạm tội: Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, cùng là người thực hành, không có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ từ trước nên cần áp dụng Điều 53 đối với các bị cáo. Tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý và là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Do đó cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 có mức hình phạt từ 01 đến 05 năm đối với các bị cáo Lò Văn K, Quàng Văn H.

[4] Xét nhân thân các bị cáo là người chưa có tiền sự, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Các bị cáo biết rõ tác hại của ma túy mà vẫn cố ý phạm tội nên cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong việc đấu tranh với tệ nạn ma túy. Cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục các bị cáo để trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[5] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo tàng trữ lượng ma túy không lớn, mục đích chỉ để sử dụng cho bản thân; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo.

[6] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự

[7] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Xét thấy các bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản, gia đình các bị cáo thuộc hộ nghèo và cận nghèo nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo

 [8] Về vật chứng:

- Đối với một phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn K và đồng bọn – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 24-12-2018; K2=0,54 gam heroine; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu là vật nhà nước cấm lưu hành và công cụ phương tiện phạm tội hết giá trị sử dụng cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu KIA Morning 26A 057.22 trở Lò Văn K, Quàng Văn H đi mua Heroine. Quá trình điều tra xác định anh Trần Quốc Đ không biết Lò Văn K, Quàng Văn H đi mua Heroine về sử dụng. Do vậy Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu đã trao trả chiếc xe ô tô nhãn hiệu KIA Morning biển kiểm soát 26A 057.22 cho anh Trần Quốc Đ, là đúng quy định của pháp luật, cần chấp nhận.

[9] Về nguồn gốc Heroine theo lời khai của Lò Văn K và Quàng Văn H là mua của một người phụ nữ dân tộc thái ở bản Thôm, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu. Do không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể của người phụ nữ nên Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu không có căn cứ để làm rõ, cần chấp nhận.

[10] Các bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ các bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự

[11] Gia đình bị cáo Lò Văn K thuộc hộ nghèo; gia đình bị cáo Quàng Văn H thuộc hộ cận nghèo cần áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Lò Văn K, Quàng Văn H phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1; Điều 51; Điều 53; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Lò Văn K: 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 24-12-2018 (là ngày bắt giam giữ các bị cáo).

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1; Điều 51; Điều 53; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Quàng Văn H 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 24-12-2018 (là ngày bắt giam giữ các bị cáo).

Các bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ các bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: một phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn K và đồng bọn – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 24-12-2018; K2=0,54 gam heroine; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu.

- Chấp nhận việc Cơ quan điều tra trả cho anh Trần Quốc Đ, địa chỉ: tiểu khu 17, thị trấn Hát Lót, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La 01 xe ô tô nhãn hiệu KIA Morning 26A 057.22

4. Án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

5. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 báo cho các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2019/HSST ngày 18/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:38/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về