TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 38/2019/HS-PT NGÀY 14/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 39/2019/TLPT-HS ngày 12-4-2019 đối với bị cáo Phạm Hoài T cùng đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo Phạm Hoài T, bị cáo Mai Văn Th; đối với bản án hình sự sơ thẩm số 05/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
- Bị cáo kháng cáo:
1. Phạm Hoài T, sinh năm 1988 tại tỉnh Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT: thôn Gia Lành, xã G, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: thôn Tân Trung, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn B, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị Kim Y, sinh năm 1965, hiện cư trú tại Thôn Gia Lành, xã Gia H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; vợ Triệu Thị Như T, sinh năm 1991 và có 02 người con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2015, hiện cư trú thôn Tân Trung, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 03-11-2018 đến ngày 09-11-2018, được thay thế biện pháp bảo lĩnh. Có mặt.
2. Mai Văn Th, sinh năm 1992 tại tỉnh Th Hóa; nơi ĐKHKTT: xóm 1, xã N, huyện Ng, tỉnh Th Hóa; nơi cư trú: xóm 4, thôn Đan Hà, xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Văn Gi, sinh năm 1949 và bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1953, hiện cư trú tại thôn Đan Hà, xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 03-11-2018 đến ngày 09-11-2018, được thay thế biện pháp bảo lĩnh. Có mặt.
Trong vụ án này, bị hại anh Bùi Văn T1 không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Vào khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 03-11-2018, các bị cáo Phạm Hoài T rủ bị cáo Mai Văn Th vào huyện Đ để mua bò. Sau đó, bị cáo Hoài Th sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Exciter BKS 49M7-1164 chở bị cáo Văn Th từ xã Tân Hà, huyện L vào khu vực thác Nếp thuộc xã Đạ K’nàng, huyện Đ để liên hệ với người bán bò nhưng không được. Do vậy, các bị cáo tiếp tục điều khiển xe đi vào đường bê tông từ xã Đạ K’Nàng qua ngã ba Phi Liêng. Khi đi qua nhà bị hại anh T1, các bị cáo nhìn thấy có 02 con bò được cột trong chuông gần đường đi. Bị cáo Hoài Th điều khiển xe đi qua khỏi nhà bị hại anh T1 khoảng 04km thì bị cáo Văn Th nói quay về do trời mưa và lạnh. Khi quay lại và đi ngang qua cổng nhà bị hại anh T1 khoảng 30m, bị cáo Hoài Th dừng xe lại và nói bị cáo Văn Th đi lại nhà bị hại anh T1 xem có ai ở nhà không. Bị cáo Văn Th đi lại rồi nói không có ai ở nhà. Sau đó bị cáo Hoài Th đi bộ đến trước nhà bị hại, bước qua hàng rào bằng lưới B40, đi vào trong sân nhìn thấy nhà bị hại đóng cửa, không có người ở nhà, bị cáo Hoài Th nảy sinh ý định trộm cắp 02 con bò đem về xã Tân Hà, huyện Lâm Hà để bán lấy tiền tiêu xài, sau đó bị cáo Hoài Th đi đến chuồng bò tháo dây cột bò dắt ra phía bờ rào rồi gọi bị cáo Văn Th lại và nói “Mày đè giùm tao lưới xuống cho bò đi qua”. Bị cáo Văn Th nhìn thấy bị cáo Hoài Th dắt bò ra thì biết là bị cáo Hoài Th trộm cắp 02 con bò nhưng vẫn đồng ý thực hiện hành vi đạp lưới xuống để bị cáo Hoài Th dắt bò qua.
Sau khi dắt được 02 con bò ra đường, bị cáo Hoài Th nói với bị cáo Văn Th dắt bò đi ra ngã ba Huế thuộc xã Đạ K’Nàng, còn bị cáo Hoài Th điều khiển xe mô tô chạy trước để tìm xe tải thuê chở bò đi tiêu thụ. Khi bị cáo Văn Th dắt bò ra đến ngã ba Huế thì bị anh Bùi Xuân Thắng (anh ruột của bị hại) phát hiện, nên đã cùng người dân truy bắt. Bị cáo Hoài Th sau khi đi tìm xe tải để thuê không được thì về xã Tân Hà mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Exciter BKS 49D1-097.98 của chị Hoàng Thị H đi vào xã Đạ K’Nàng để đón bị cáo Văn Th thì bị bắt giữ.
Vật chứng thu giữ 01 con bò lông màu đen, trọng lượng 180kg; 01 con bò lông màu vàng-bạc, trọng lượng 172kg; Tại kết luận định giá tài sản số 34/KL-HĐĐG ngày 07-11-2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện Đ, xác định con bò lông màu đen, trọng lượng 180kg giá trị 13.500.000đ; con bò lông màu vàng- bạc, trọng lượng 172kg trị giá 12.900.000đ. Tổng cộng giá trị của 02 con bò là 26.400.000đ.
Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ 01 Giấy chứng minh nhân dân số 250735089 mang tên Phạm Hoài T; 01 Giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Thế Mai; 01 Giấy đăng ký xe mô tô mang tên Võ Thị H; 01 Giấy đăng ký xe mô tô mang tên Nguyễn Công T; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh biển kiểm soát 49D1-097.98; 01 điện thoại di động màu trắng, màn hình cảm ứng; 01 cục sạc dự phòng màu xanh; 01 ví da và số tiền 210.000đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màn hình cảm ứng, màu trắng đen; 01 con dao dài 15cm, cán màu đỏ. Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại toàn bộ các giấy tờ, tài sản nêu trên cho chủ sở hữu hợp pháp. Đối với xe mô tô biển kiểm soát 49M7-1164 các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, 01 con dao dài 15cm, cán màu đỏ hiện đang tạm giữ tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ.
Tại bản án số 05/2019/HS-ST ngày 26-02-2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng đã tuyên bố bị cáo Phạm Hoài T, bị cáo Mai Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Phạm Hoài T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 03-11-2018 đến ngày 09-11-2018.
Xử phạt bị cáo Mai Văn Th 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 03-11-2018 đến ngày 09-11-2018.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự về xử lý vật chứng: Tuyên tịch thu bán đấu giá 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS 49M7-1164.
Ngoài ra, bản án còn giải quyết về án phí, tuyên quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 05-3-2019 bị cáo Mai Văn Th kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo.
Ngày 06-3-2019 bị cáo Phạm Hoài T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm; các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và đề nghị Tòa án chấp nhận. Ngoài ra, các bị cáo khai nhận thực hiện hành vi như bản án sơ thẩm, không thắc mắc khiếu nại bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bột luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Vào khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 03-11-2018, bị cáo Phạm Hoài T điều khiển xe mô tô chở bị cáo Mai Văn Th đi theo hướng xã Đạ K’Nàng qua ngã ba Phi Liêng; khi đi ngang qua nhà bị hại anh T1, thấy có 02 con bò được cột trong chuồng gần đường đi. Sau khi bị cáo Văn Th kiểm tra không có ai ở nhà, bị cáo Hoài Th thực hiện hành vi trộm cắp 02 con bò dắt ra phía bờ rào và gọi bị cáo Văn Th đè hàng rào lưới B40 xuống để bị cáo Hoài Th dắt bò qua. Sau khi trộm 02 con bò, bị cáo Văn Th dắt bò ra đến ngã ba Huế thì bị anh Bùi Xuân Th (anh ruột của bị hại) phát hiện và cùng người dân truy bắt, còn bị cáo Hoài Th đi tìm xe tải để thuê chở bò nhưng không được, sau đó quay trở lại thì bị bắt giữ. Cấp sơ thẩm đánh giá toàn diện chứng cứ, đối chiếu lời khai của các bị cáo, vật chứng thu giữ, kết quả định giá trong tố tụng; lời khai bị hại, người làm chứng đã tuyên bố các bị cáo Phạm Hoài T, bị cáo Mai Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo, đối chiếu với tài liệu chứng cứ thể hiện: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương. Các bị cáo đã được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Ngoài ra cũng đã được phân hóa vai trò đồng phạm, áp dụng các Điều 38, Điều 58 để quyết định hình phạt từng bị cáo là phù hợp.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo không xuất trình tài liệu chứng cứ mới nên không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Về vật chứng: Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 49M7-1164, cấp sơ thẩm nhận định cho rằng các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội là không đúng. Bởi lẽ các bị cáo điều khiển xe và khi đi ngang qua nhà bị hại anh T1, thấy nhà không có ai, nên các bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp; chứ không thuộc trường hợp các bị cáo bàn bạc chuẩn bị phương tiện xe mô tô để đi trộm cắp. Do vậy, cần sửa bản án sơ thẩm, trả lại cho bị cáo Phạm Hoài T chiếc xe mô tô này là phù hợp.
[3] Về án phí phúc thẩm: Tuy có sửa bản án về xử lý vật chứng nhưng kháng cáo của các bị cáo không được chấp nhận, nên mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm d khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Hoài T, bị cáo Mai Văn Th, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt, sửa bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng, xử:
1. Tuyên bố các bị cáo Phạm Hoài T, bị cáo Mai Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Phạm Hoài T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 03-11-2018 đến ngày 09-11-2018.
Xử phạt bị cáo Mai Văn Th 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 03-11-2018 đến ngày 09-11-2018.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trả lại cho bị cáo Phạm Hoài T 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 49M7-1164.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án. Các bị cáo Phạm Hoài T, Mai Văn Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 38/2019/HS-PT ngày 14/05/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 38/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về