Bản án 38/2019/HNGĐ-ST ngày 07/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 38/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 07 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyệnThoại  Sơn,  tỉnh  An  Giang,  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  thụ  lý  số 01/2019/TLST-HNGĐ ngày 02/01/2019 về việc tranh chấp “Hôn nhân và  gia đình, ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2019/QĐXX-ST ngày 21/3/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Lê Văn L, sinh năm 1962 (có mặt)

Cư trú: Ấp Thanh Niên, thị trấn Phú Hòa, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1971 (vắng mặt)

Cư trú: Ấp Trung Bình Nhất, xã Vĩnh Trạch, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Thoại Sơn, nguyên đơn ông Lê Văn L trình bày: Tôi với bà Nguyễn Thị N chung sống với nhau từ năm 1990, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Vĩnh Trạch, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.ngày 27/11/1996. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc và có  03  con chung tên Lê Văn Q, sinh năm1990, Lê Văn K, sinh năm 1992, Lê Thị Mỹ P, sinh năm 1998 (cả 03 người con đều đã trưởng thành). Đến năm 2011, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân do tánh tình không phù hợp, bà N thường xuyên cờ bạc, không quan tâm chăm sóc gia đình, mặc dù nhiều lần góp ý cho bà N khắc phục nhưng vẫn không thay đổi. Vợ chồng đã ly thân từ năm 2011 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên tôi yêu cầu được ly hôn với bà Nguyễn Thị N; về con chung, đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết; về tài sản chung, tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết; nợ chung không có.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt cho bà Nguyễn Thị N thông báo thụ lý, thông báo hòa giải với nội dung ông Lê Văn L yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thị N; Về quan hệ con chung có 03 con chung tên Lê Văn Q, sinh năm1990, Lê Văn K, sinh năm 1992, Lê Thị Mỹ P, sinh năm 1998 (cả 03 người con đã trưởng thành); về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung không có.

Do bà N vắng mặt tại nơi cư trú, nên Tòa án đã niêm yết các thủ tục tố tụng, lập biên bản không hòa giải được và tiến hành đưa vụ án ra xét xử.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn phát biểu về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ á n cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án, đều chấp hành đúng với quy định của pháp luật. Về trình tự thụ lý, biên bản tống đạt, việc tuân theo pháp luật đảm bảo theo đúng trình tự quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án, qua xem xét toàn bộ chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên Tòa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn; bị đơn bà Nguyễn Thị N cư trú tại ấp Trung Bình Nhất, xã Vĩnh Trạch, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Theo quy định tại Điều 28, Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn. Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị N vắng mặt, Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần. Do vậy, căn cứ vào khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị N. [2] Về nội dung:

- Về hôn nhân: Ông Lê Văn L chung sống với bà Nguyễn Thị N từ năm 1990, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn, được xem là hôn nhân hợp pháp, nên phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Sau khi kết hôn, ông L với bà N có thời gian chung sống hạnh phúc, có con chung. Đến năm 2011, vợ chồng phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân do tánh tình không phù hợp, bà N không quan tâm chăm sóc gia đình, vợ chồng thường xuyên cự cải nhau và đã ly thân từ năm 2011 đến nay. Thời gian ly thân 02 người không còn liên lạc nhau. Tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 05/3/2019, ông Trần Tấn Hiệp là tổ trưởng tổ 2 ấp Thanh Niên, thị trấn Phú Hòa, huyện Thoại Sơn xác nhận ông L chung sống với bà N cách nay khoảng 20 năm, thời gian đầu cuộc sống có hạnh phúc, thời gian sau này ông L bà N bất đồng trong việc làm ăn nên thường xuyên cự cải nhau, hai người không còn sống chung với nhau khoảng 7-8 năm nay, trong thời gian ly thân thỉnh thoảng bà N có về thăm nhà; qua tìm hiểu được biết bà N cũng muốn ly hôn với ông L nhưng do làm ăn xa nhà nên không có điều kiện nộp đơn tại Tòa án do vậy về tình cảm xét thấy vợ chồng ông L, bà N khó có khả năng hàn gắn lại. Từ những nhận định, phân tích nêu trên, xét thấy tình trạng hôn nhân giữa ông Lê Văn L với bà Nguyễn Thị N mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông Lê Văn L được ly hôn với bà Nguyễn Thị N.

- Về con chung: Quá trình chung sống ông L với bà N có 03 con chung hiện nay đã trưởng thành, tự lao động được nên không đề cập xem xét.

- Về tài sản chung, nợ chung: Theo ông L trình bày, quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, do vậy Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

 [3] Về án phí Hôn nhân sơ thẩm: Do ông L yêu cầu ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2014; Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH.14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn L.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Lê Văn L được ly hôn với bà Nguyễn Thị N Giấy chứng nhận kết hôn số 73, ngày 27 tháng 11 năm 1996 của UBND xã Vĩnh Trạch, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

- Về quan hệ con chung: Đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giảiquyết.

- Về quan hệ tài sản: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Ghi nhận ông L xác định không có nợ chung nhưng khi bản án này có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của ông L và bà N trong thời kỳ hôn nhân thì ông Lê Văn L và bà Nguyễn Thị N phải liên đới trách nhiệm với tư cách là bị đơn trong một vụ án dân sự khác.

- Về án phí sơ thẩm: Ông Lê Văn L phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0014882 ngày 02/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang (Ông L đã nộp xong).

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại trụ sở UBND xã, thị trấn nơi đương sự cư trú để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2019/HNGĐ-ST ngày 07/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình 

Số hiệu:38/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về