Bản án 38/2018/HS-ST ngày 30/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ LƯƠNG, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 38/2018/HS-ST NGÀY 30/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 8 năm 2018, tại Ủy ban nhân dân xã Đ, Tòa án nhân dân huyện Phú Lương xét xử lưu động công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2018/TLST-HS, ngày 28 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2018/QĐXXST – HS ngày 14 tháng 8 năm 2018, đối với bị cáo: 

Họ và tên: Bùi Mạnh C, tên gọi khác: Không; sinh năm 1976. Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm Y1, xã Y, huyện P, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự  do; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Danh V (đã chết) và bà Phạm Thị L, sinh năm 1945; có vợ là Nguyễn Thị L1, sinh năm 1976, có 03 con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2016; Tiền sự: Không. Tiền án: Tại bản án số 78/2011/HSST ngày 27/12/2011, Bùi Mạnh C bị TAND tỉnh Cao Bằng xử phạt 09 năm tù về tội Mua bán trái phép vật liệu nổ, bị cáo đã chấp hành xong bản án ngày 31/8/2015, chưa được xóa án tích.

Nhân thân: Năm 1994, bị cáo bị TAND huyện Phú Lương xét xử về tội Cưỡng đoạt tài sản công dân, xử phạt 09 tháng tù giam; năm 2007, bị cáo bị TAND tỉnh Thái Nguyên xử phạt 03 năm tù về tội Vận chuyển trái phép vật liệu nổ, đã chấp hành xong bản án, đương nhiên được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tam giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2018 đến ngày 29/3/2018 chuyển tạm giam đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên.

- Người chứng kiến: Anh Đào Văn Đô, sinh năm 1966, địa chỉ: Xóm Y1, xã Y, huyện P, tỉnh T (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ ngày 22/3/2018, tổ công tác Công an huyện Phú Lương phối hợp với Công an xã Y phát hiện bắt quả tang đối tượng Bùi Mạnh C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại xóm Y1, xã Y, huyện P. Thu giữ tại túi quần bò phía sau bên trái C đang mặc 01 gói chất bột màu trắng được bọc 02 lớp, lớp bên ngoài bọc bằng giấy vệ sinh, bên trong là lớp giấy màu trắng có chữ màu xanh, nghi là ma túy loại Heroine. Cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở, đồ vật của C ở xóm Y1, xã Y, P thu giữ: 01 gói chất bột màu trắng được gói bên ngoài bằng lớp giấy trắng có dòng kẻ ngang (nghi là ma túy loại Heroine) trong chiếc giày màu trắng – xám để dưới đất cạnh tủ nhôm kính kê trong bếp nhà C; 01 kéo kim loại có cán nhựa màu vàng ; 01 dao tem nhãn hiệu Croma đã qua sử dụng trên mặt tủ kính kê trong gian bếp nhà C. Tại kết luận giám định số 517/KL-PC54 ngày 29/3/2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: Số chất bột màu trắng thu giữ của C khi bắt quả tang và khám xét đều là chất ma túy loại Heroine có khối lượng là 0.319 gam. 

C khai: Do nghiện ma túy, khoảng 16 giờ ngày 21/3/2018 C một mình đi xe buýt từ nhà xuống khu vực bến xe khách Thái Nguyên (bến xe cũ) với mục đích mua ma túy về để sử dụng cho bản thân. Tại đây, C gặp một người nam giới khoảng 30 tuổi (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) đứng ở ven đường và hỏi mua của người này được 01 gói ma túy loại heroine giá 250.000 đồng. C đem số ma túy về nhà dùng dao và kéo chia số ma túy mua được thành 02 gói, 01 gói C cất trong chiếc giày để ở góc nhà bếp với mục đích để sử dụng sau, 01 gói C trích ra một ít sử dụng ngay tại vị trí cống nước thải gần nhà và phần còn lại gói vào và cất giấu trong túi quần bò phía sau bên trái đang mặc để sử dụng dần. Đến khoảng 15 giờ ngày 22/3/2018 C bị phát hiện và bắt quả tang như trên.

Tại bản cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 27/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương đã truy tố bị cáo Bùi Mạnh C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Mạnh C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1  Điều 52 của Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt: Bùi Mạnh C 24 – 30 tháng tù giam.

Đề nghị xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật. 

Ý kiến của bị cáo: Bị cáo không có ý kiến gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của của Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Lương, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xác nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong, biên bản xác định trọng lượng, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng... Do vậy, đã đủ cơ sở để xác định: Hồi 15 giờ ngày 22/3/2018, tại xóm Y1, xã Y, huyện P, Bùi Mạnh C đã có hành vi tàng trữ trái phép 0.319 gam ma túy loại heroine, mục đích sử dụng cho bản thân, bị bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như vậy, Cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 27 tháng 6 năm 2018 của VKSND huyện P truy tố đối với bị cáo Bùi Mạnh C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật. Nội dung điều luật quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a.…

c. Heroine…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

[3] Xét tính chất của vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, làm mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh bị cáo bằng pháp luật hình sự nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

[4] Xét các yếu tố về nhân thân của bị cáo thấy rằng: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, có nhân thân xấu. Bản thân bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức pháp luật và khả năng điều khiển hành vi, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, do vậy bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS là người phạm tội thành khẩn khai báo, bị cáo có bố là người có công với Nhà nước, được tặng thưởng huân huy chương kháng chiến nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS 2015. Năm 2011 bị cáo bị kết án về tội Mua bán trái phép vật liệu nổ chưa được xóa án tích mà cố ý thực hiện hành vi phạm tội mới, do vậy bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS 2015 là tái phạm.

[6] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các yếu tố về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy cần phải có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo và cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời răn đe giáo dục phòng ngừa chung. Về hình phạt bổ sung, do bị cáo là đối tượng nghiện ma túy không có tài sản nên cần miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.

[7] Vật chứng của vụ án: Cần tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu A1 bên trong có 0.216 gam mẫu A1 còn lại sau giám định; 01 bì niêm phong ký hiệu A2 bên trong có 0.028 gam mẫu A2 còn lại sau giám định; 01 bì niêm phong ký hiệu A3 bên trong có 02 vỏ bì niêm phong ký hiệu C1, C2 và vỏ giấy gói; 01 kéo kim loại có cán nhựa màu vàng, đã qua sử dụng; 01 dao tem nhãn hiệu CROMA đã qua sử dụng.

[8] Về án phí: Cần buộc bị cáo chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về nguồn gốc số ma túy, C khai mua của người nam giới không rõ lai lịch, địa chỉ ở khu vực bến xe khách Thái Nguyên (bến xe cũ), Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Lương tiếp tục điều tra xử lý sau.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà về hình phạt cũng như các vấn đề khác là phù hợp nên cần được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 47 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106, Điều 136, Điều 329 BLTTHS 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Mạnh C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt: Xử phạt Bùi Mạnh C 30 (ba mươi) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 22/3/2018. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

2. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu A1 bên trong có 0.216 gam mẫu A1 còn lại sau giám định; 01 bì niêm phong ký hiệu A2 bên trong có 0.028 gam mẫu A2 còn lại sau giám định; 01 bì niêm phong ký hiệu A3 bên trong có 02 vỏ bì niêm phong ký hiệu C1, C2 và vỏ giấy gói; 01 kéo kim loại có cán nhựa màu vàng, đã qua sử dụng; 01 dao tem nhãn hiệu CROMA đã qua sử dụng. (Tình trạng, đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Phú Lương và Chi cục Thi hành án huyện Phú Lương ngày 12/7/2018).

3. Án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2018/HS-ST ngày 30/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:38/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Lương - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về