Bản án 38/2018/HS-ST ngày 30/08/2018 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 38/2018/HS-ST NGÀY 30/08/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 30 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 35/2018/TLST-HS, ngày 25 tháng 7 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2018/QĐXXST-HS, ngày 17 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Quang T, sinh ngày 26/02/1961; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Khu 8, xã N, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: Lớp 10/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn L4 (đã chết) và bà Vũ Thị T1, sinh năm 1926; Có vợ là Nguyễn Thị T2, sinh năm 1960 và 02 con (con lớn sinh năm 1985, con nhỏ sinh năm 1988);

- Tiền án: Không.

- Tiền sự: Có 01 tiền sự Ngày 29/11/2017, Công an huyện Đoan Hùng xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000đ về hành vi đánh bạc. Ngày 01/12/2017, Nguyễn Quang T đã nộp đủ khoản tiền trên.

Bị cáo không bị bắt tạm giữ, tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã N, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ. Có mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Hoàng Văn L, sinh năm 1983

Nơi cư trú: Khu 13, xã N, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ

2. Anh Triệu Quang L1, sinh năm 1977

Nơi cư trú: Khu 02, xã N, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ

3. Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1992

Nơi cư trú: Thôn 04, xã P, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ

4. Anh Lê Văn L2, sinh năm 1975

Nơi cư trú: Khu 01, xã N, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ

5. Anh Ngô Mạnh C, sinh năm 1975

Nơi cư trú: Khu 08, xã N, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ

6. Anh Nguyễn Văn D2, sinh năm 1979

Nơi cư trú: Khu 08, xã N, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 19/6/2018, Hoàng Văn L, sinh năm 1983 ở khu 13, xã N, huyện Đ điều khiển xe máy biển số 19E1-180.xx của mình đến nhà anh Nguyễn Văn D2, sinh năm 1979 ở khu 8, xã N chơi, đợi xem bóng đá. Sau đó, anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1992 ở thôn 4, xã P, anh Triệu Quang L1, sinh năm 1977 ở thôn 2, xã N và anh Lê Văn L2, sinh năm 1975 ở khu 1, xã N cũng lần lượt đến. Trong lúc ngồi chơi uống nước, L nhìn thấy 01 bộ bài tú lơ khơ có sẵn ở trên bàn nên rủ những người còn lại đánh bạc dưới hình thức chơi ba cây. D2, L1, D, L2 đồng ý. Cả 5 người cùng ngồi tại bàn để đánh bạc, thoả thuận hình thức chơi như sau:

Sử dụng 36 quân bài tú lơ khơ từ A đến 9. Người cầm chương chia lần lượt cho mỗi người chơi ba quân bài. Sau đó, những người chơi lên bài, tính điểm rồi so với người cầm chương. Nếu ai cao điểm hơn người cầm chương thì được người cầm chương trả cho 10.000đ, nếu thấp điểm hơn người cầm chương thì phải trả cho người cầm chương 10.000đ.

Khi đánh bạc các đối tượng sử dụng số tiền như sau: Nguyễn Văn D2 có 50.000đ; Nguyễn Văn D có 500.000đ; Hoàng Văn L có 500.000đ; Triệu Quang L1 có 150.000đ; Lê Văn L2 có 100.000đ. Các đối tượng đánh đến khoảng 22 giờ cùng ngày thì Nguyễn Quang T, sinh năm 1961 ở khu 8, xã N, huyện Đ điều khiển xe máy biển số 37F5 – 86xx mượn của con rể là anh Nguyễn Thanh H, sinh năm 1978 ở huyện G, thành phố Hà Nội đến, thấy các đối tượng đang đánh bạc thì tham gia cùng. Khi đánh bạc T có 190.000đ, khi T vào đánh được vài ván thì Ngô Mạnh C, sinh năm 1975 ở khu 8, xã N điều khiển xe máy biển số 19E1-028.xx đến và cùng tham gia đánh bạc. Khi đánh bạc C có 1.870.000đ, sử dụng 170.000đ vào việc đánh bạc. Tổng số tiền các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc là 1.660.000đ.

Đến 22 giờ 20 phút cùng ngày, các đối tượng đang đánh bạc thì bị tổ công tác của Đội cảnh sát điều tra về trật tự xã hội - Công an huyện Đoan Hùng phát hiện. Lúc này C đúc 170.000đ vào túi quần. Riêng L1 cầm 370.000đ và L2 cầm 10.000đ tiền đánh bạc bỏ chạy. Công an huyện Đoan Hùng đã lập biên bản vi phạm hành chính đối với 05 đối tượng còn lại đồng thời thu giữ: 36 quân bài tú lơ khơ; 2.980.000đ tiền mặt (gồm 1.110.000đ trên chiếu bạc và 1.870.000đ của Ngô Mạnh C, trong đó có 170.000đ trong túi quần và 1.700.000đ trong ví); 04 điện thoại di động gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA Lumia kèm sim số 01636.428.xxx của Nguyễn Quang T, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 kèm 2 sim số 0979.692.xxx và 0989.136.xxx của Nguyễn Văn D, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1202 kèm sim số 0986.578.xxx của Hoàng Văn L, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5s kèm sim số 0904.478.xxx của Nguyễn Văn D2, 01 ví giả da màu nâu của Ngô Mạnh C; 05 xe máy gồm: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave S biển số 19E1 - 028.xx của Ngô Mạnh C, 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave S biển số 19E-069.xx của Triệu Quang L1,01 xe máy Honda Dream biển số 37F5 – 86xx của Nguyễn Quang T, 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave biển số 19E1 - 229.xx của Lê Văn L2 và 01 xe máy nhãn hiệu Loncin biển số 19E1 - 180.xx của Hoàng Văn L.

Đến ngày 20/6/2017, L1 và L2 tự giác đến Công an huyện Đoan Hùng khai báo về hành vi đánh bạc của mình đồng thời giao nộp lại tổng số tiền 380.000đ mà cả hai đã cầm theo khi bỏ chạy. Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Quang T cùng các đối tượng khác cũng hoàn toàn thừa nhận hành vi đánh bạc với hình thức được thua bằng tiền như trên.

Đối với Nguyễn Quang T đang có tiền sự về hành vi đánh bạc trái phép nên Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can.

Tại bản cáo trạng số: 37/CT-VKS ngày 24/7/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ đã truy tố bị cáo Nguyễn Quang T về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang T phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321, các điểm i, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T từ 12 tháng đến 15 tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND xã N nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án của Tòa án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 1.660.000đ;

- Tịch thu để tiêu hủy 36 quân bài tú lơ khơ;

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Quang T 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA Lumia kèm sim số 01636.428.xxx;

- Xác nhận Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Đoan Hùng đã trả lại 01 ví giả da và 1.700.00đ cho anh Ngô Mạnh C, trả 03 chiếc điện thoại di động có kèm theo sim số như đã thu giữ cùng 05 xe máy cho chủ sở hữu hợp pháp;

Bị cáo không tranh luận gì, thừa nhận và ăn năn hối hận với hành vi phạm tội của bản thân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng hình sự: Các quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, hành vi tố tụng của điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án, quyết định tố tụng của Viện kiểm sát và hành vi tố tụng của Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố là đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về căn cứ buộc tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, của người làm chứng, vật chứng thu giữ được và các tài liệu khác có trong hồ sơ, nên có đủ cơ sở để kết luận:

Trong khoảng thời gian từ 21h30 đến 22h20 ngày 19/6/2018, tại nhà của Nguyễn Văn D2 ở khu 8, xã N, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ. Nguyễn Quang T đã có hành vi sử dụng 190.000đ để đánh bạc dưới hình thức chơi ba cây cùng với 06 đối tượng khác là Nguyễn Văn D2, Triệu Quang L1, Nguyễn Văn D, Hoàng Văn L, Lê Văn L2 và Ngô Mạnh C. Tổng số tiền các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc là 1.660.000đ (Một triệu sáu trăm sáu mươi nghìn đồng). Mặc dù số tiền mà Nguyễn Quang T sử dụng đánh bạc là dưới 5.000.000đ, nhưng ngày 29/11/2017 bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, tính đến thời điểm phạm tội ngày 19/6/2018 chưa được xóa án tích xử phạt vi phạm hành chính, do đó hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Điều 321 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá trừ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”

[3]. Về tính chất của hành vi phạm tội: Tuy vụ án có tính chất ít nghiêm trọng, nhưng hành vi của bị cáo đã xâm phạm tới trật tự an toàn xã hội. Do vậy cần phải có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa chung tội phạm.

[4]. Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án; phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

[5]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bản thân bị cáo và vợ đều là người có công với cách mạng, được tặng thưởng Huy chương chiến sĩ vẻ vang. Do vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s, x khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, trên cơ sở phục vụ công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm và tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm trở thành người công dân có ích cho xã hội, nên cần xử phạt bị cáo hình phạt ở mức khởi điểm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

Bị cáo không có nghề nghiệp, chức vụ và cũng không có thu nhập gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng:

- Số tiền bị cáo và các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc là 1.660.000đ, cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước;

- 36 quân bài tú lơ khơ là công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên sẽ tịch thu để tiêu hủy;

- Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA Lumia kèm sim số 01636.428.xxx thu giữ của bị cáo do không liên quan đến việc phạm tội nên sẽ trả lại cho bị cáo;

- Xác nhận Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Đoan Hùng đã trả cho Ngô Mạnh C 01 ví giả da, 1.700.00đ (Một triệu bảy trăm nghìn đồng) và 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave S biển số 19E1 - 028.xx; trả cho anh Nguyễn Văn D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 kèm 2 sim số 0979.692.xxx và 0989.136.xxx; trả cho anh Hoàng Văn L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1202 kèm sim số 0986.578.xxx và 01 xe máy nhãn hiệu Loncin biển số 19E1 - 180.xx; trả cho anh Nguyễn Văn D2 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5s kèm sim số 0904.478.xxx; trả cho anh Triệu Quang L1 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave S biển số 19E-069.xx; trả cho bị cáo Nguyễn Quang T 01 xe máy Honda Dream biển số 37F5 – 86xx; trả cho anh Lê Văn L2 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave biển số 19E1 - 229.xx.

[7]. Đối với Nguyễn Văn D2 biết các đối tượng đánh bạc tại nhà mình nhưng đã không ngăn cản mà còn ngồi đánh bạc cùng. Tuy nhiên xét thấy hành vi của D2 chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc nên Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Đoan Hùng đã chuyển Chủ tịch UBND huyện Đoan Hùng giải quyết theo thẩm quyền. Đối với hành vi đánh bạc của Triệu Quang L1, Nguyễn Văn D, Hoàng Văn L, Lê Văn L2, Ngô Mạnh C, Nguyễn Văn D2 không cấu thành tội “Đánh bạc” nên Cơ quan CSĐT - Công an huyện Đoan Hùng chuyển xử phạt hành chính là phù hợp.

[8]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 321, các điểm i, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật hình sự:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang T phạm tội “Đánh bạc”.

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND xã N N, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án của Tòa án. Giao bị cáo cho UBND xã N, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ quản lý, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

Không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu 1.660.000đ (Một triệu sáu trăm sáu mươi sáu nghìn đồng) sung công quỹ Nhà nước;

- Tịch thu để tiêu hủy 36 (Ba mươi sáu) quân bài tú lơ khơ;

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Quang T 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA Lumia kèm sim số 01636.428.xxx;

- Xác nhận Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Đoan Hùng đã trả cho Ngô Mạnh C 01 ví giả da, 1.700.00đ (Một triệu bảy trăm nghìn đồng) và 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave S biển số 19E1 - 028.xx; trả cho anh Nguyễn Văn D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 kèm 2 sim số 0979.692.xxx và 0989.136.xxx; trả cho anh Hoàng Văn L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1202 kèm sim số 0986.578.xxx và 01 xe máy nhãn hiệu Loncin biển số 19E1 - 180.xx; trả cho anh Nguyễn Văn D2 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5s kèm sim số 0904.478.xxx; trả cho anh Triệu Quang L1 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave S biển số 19E-069.xx; trả cho bị cáo Nguyễn Quang T 01 xe máy Honda Dream biển số 37F5 – 86xx; trả cho anh Lê Văn L2 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave biển số 19E1 - 229.xx.

(Các vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đoan Hùng đang quản lý).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Quang T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

309
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2018/HS-ST ngày 30/08/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:38/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đoan Hùng - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về