TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG NHÉ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 38/2018/HS-ST NGÀY 29/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 29/5/2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 41/2018/HSST ngày 04/5/2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2018/QĐXXST-HS ngày 15/5/2018 đối với bị cáo:
Khoàng Văn S (Tên gọi khác: không); Sinh năm 1990 tại xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Bản Y, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 8/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Khoàng Văn Ơ và bà Hù Thị Ph; Có vợ là Lò Thị Ch và có 03 con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 20/01/2018 đến ngày 23/01/2018, tạm giam từ ngày 23/01/2018 đến nay, có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Pờ Go Lòong- Luật sư cộng tác viên trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào ngày 20/01/2018 Khoàng Văn S mua được 01 gói thuốc phiện của một người đàn ông dân tộc Mông lạ mặt tại khu vực bản H, xã N, huyện M với giá tiền 50.000 đồng. Mục đích S mua thuốc phiện là về để sử dụng cho bản thân. Mua được thuốc phiện người đàn ông dân tộc Mông đi đâu S không biết, còn S cất giấu số thuốc phiện vừa mua được vào trong túi quần rồi quay về.
Khoảng 14 giờ 10 phút cùng ngày, Svể đến cuối bản H, xã N, huyện M thì bị Tổ Công tác Công an huyện Mường Nhé phối hợp với đồn Công an Mường Toong phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số thuốc phiện trên.
Kết luận giám định số 258/GĐ-PC54 ngày 04/02/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất dẻo màu nâu đen gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của Khoàng Vắn S là thuốc phiện; Khối lượng thuốc phiện thu giữ của Khoàng Văn S là 2,56 gam.
Cáo trạng số: 21/CT-VKS-MN ngày 04/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé đã truy tố Khoàng Văn S để xét xử về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, phần luận tội đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS tuyên bố bị cáo Khoàng Văn S phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị xử phạt bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù; Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự; Căn cứ khoản 1 Điều 47 và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy vật chứng vụ án; căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo nhất trí với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, nhất trí với luận tội về tội danh; hình phạt bổ sung; vật chứng vụ án và án phí; về phần hình phạt chính đề nghị xử phạt bị cáo dưới 15 tháng tù vì lý do bị cáo phạm tội do kém hiểu biết pháp luật, sinh sống ở vùng sâu vùng xa.
Tại phiên tòa bị cáo Khoàng Văn S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã tóm tắt ở trên và đúng như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo nhất trí với nội dung bào chữa chữa của Luật sư, không tranh luận gì với luận tội của Viện kiểm sát. Lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về phụ giúp gia đình và cùng vợ chăm sóc con nhỏ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường Nhé, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bào chữa. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bào chữa đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai và các bản cung có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, phù hợp với kết luận giám định, kết luận điều tra, cáo trạng truy tố và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Vậy đã có đủ căn cứ để xác định: Hành vi tàng trữ trái phép 2,56 gam thuốc phiện với mục đích để sử dụng của bị cáo Khoàng Văn S đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội và hình phạt được quy định tại tại điểm b khoản 1 Điều 249 BLHS. Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé truy tố bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, đi ngược lại đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng ngừa các tội phạm về ma túy, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý.
Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thấy cần xử phạt bị cáo nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mục đích để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù. Người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo dưới 15 tháng tù. Xét đề nghị này của Đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa là có căn cứ, hợp pháp nên cần xử phạt bị cáo như đề nghị của Viện Kiểm sát và người bào chữa.
Xét hoàn cảnh kinh tế gia đình của bị cáo khó khăn, thuộc diện hộ nghèo. Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát và người bào chữa không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 249 BLHS đối với bị cáo.
Đối với đối tượng người đàn ông dân tộc Mông đã bán thuốc phiện cho bị cáo Khoàng Văn S, quá trình điều tra không xác định được người này là ai, ở đâu, do vậy không có cơ sở để xử lý.
[3] Về xử lý vật chứng: Đối với số thuốc phiện là 1,56 gam thuốc phiện còn lại sau khi đã trích giám định cần tịch thu tiêu hủy.
[4] Về án phí: Xét thấy bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số, thường trú ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn đề nghị miễn án phí nên chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát và người bào chữa miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
1. Tuyên bố bị cáo Khoàng Văn S phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".
Xử phạt bị cáo Khoàng Văn S 14 (Mười bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 20/01/2018.
2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu huỷ 1,56 gam thuốc phiện là vật chứng vụ án Khoàng Văn S.
Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/5/2018 giữa Công an huyện Mường Nhé và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Nhé.
3. Về án phí:
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Khoàng Văn S.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 38/2018/HS-ST ngày 29/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 38/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường Nhé - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/05/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về