TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 38/2018/HS-PT NGÀY 25/01/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 25 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 684/2017/HSPT ngày 19/12/2017 đối với bị cáo Nguyễn Duy K do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 342/2017/HSST ngày 16/11/2017 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Duy K; giới tính: nam; sinh năm 1990 tại Thành phố Hồ Chí Minh; trú tại: Khu phố A1, phường A2, Quận A3, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 12/12; con ông Nguyễn Duy T và con bà Lương Thị Kim X; hoàn cảnh gia đình: bị cáo có vợ và 01 người con (sinh năm: 2017); Tiền sự không, tiền án không;
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 24/05/2017 (có mặt tại phiên tòa).
- Các bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, không bị kháng nghị: Đinh Thị Thùy D và Phạm Anh H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 24/05/2017, công an quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đi tuần tra phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang Phạm Thanh H điều khiển xe mô tô biển số 59X3-08726 chở Đinh Thị Thuỳ D đang bán ma tuý cho Lê Trương Ngọc M trước cửa nhà Đường B1, Khu phố A4, phường A5, quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Số ma túy thu giữ trên người D qua giám định là ma tuý ở thể rắn, có trọng lượng 1,1669g loại Methamphetamine và số ma túy thu giữ trên người M qua giám định là ma tuý ở thể rắn, có trọng lượng 0,2146g loại Methamphetamine.
Qua quá trình điều tra, Đinh Thị Thuỳ D và Phạm Thanh H khai nhận về số ma túy thu giữ là được mua của một người tên thường gọi là K qua số điện thoại 0902781801 vào lúc 23 giờ ngày 23/05/2017 với giá 1.800.000 đồng. Đồng thời, D và H cũng khai đã mua ma tuý của Khánh nhiều lần để bán lại cho người nghiện ma túy.
Đối với Lê Trương Ngọc M khai là người nghiện ma tuý, đã mua ma tuý của D và Hào được vài lần với giá từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng để sử dụng chứ không bán lại cho ai.
Từ lời khai của Đinh Thị Thuỳ D và Phạm Thanh H, khoảng 14 giờ 15 phút ngày 24/05/2017, công an quận Thủ Đức kiểm tra bắt quả tang Nguyễn Duy K và thu giữ số ma túy qua giám định là ma tuý ở thể rắn, có trọng lượng 4,8129g loại Methamphetamine. K khai nhận từ tháng 10/2016 K mua của một người tên A1 (không rõ lý lịch) ở công viên A6, Quận A7 rồi bán lại cho những người sử dụng ma tuý.
Theo Bản án hình sự sơ thẩm số 342/2017/HSST ngày 16/11/2017 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã sửa đổi bổ sung năm 2009;
Xử phạt: Nguyễn Duy K 09 (chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/5/2017.
Ngoài ra, bản án còn tuyên phạt Phạm Thanh H 08 năm tù, Nguyễn Thị Thùy D 07 năm tù cùng về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã sửa đổi bổ sung năm 2009; đồng thời cũng tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 16/11/2017 Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 27/11/2017 bị cáo Nguyễn Duy K có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Duy K khai nhận hành vi vi phạm của mình như nội dung bản án sơ thẩm đã thể hiện và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: sau khi phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội do các bị cáo thực hiện xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo Nguyễn Duy K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và mức án 09 năm tù là phù hợp nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo K và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Vào khoảng 14 giờ 15 phút ngày 24/05/2017, trên đường K đem ma túy đi bán thì bị công an quận Thủ Đức bắt quả tang và thu giữ ma tuý ở thể rắn, có trọng lượng 4,8129g loại Methamphetamine.
[2] Căn cứ vào tang vật thu giữ cùng với lời khai của bị cáo Nguyễn Duy K và các lời khai khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở xác định: Từ tháng 10/2016, Nguyễn Duy K mua của một người tên A1 (không rõ lý lịch) ở công viên A6, Quận A7 rồi bán lại cho nhiều người, trong đó nhiều lần bán ma túy cho Đinh Thị Thùy D và Nguyễn Thanh H.
Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong quá trình điều tra đã xác định được bị cáo K mua bán ma túy nhiều lần nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 để xét xử bị cáo K là có cơ sở.
[2] Trong quá trình điều tra, các bị cáo Nguyễn Duy K, Đinh Thị Thùy D và Nguyễn Thanh H đều khai nhận đã bán ma túy nhiều lần. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm, chỉ có bị cáo K giữ nguyên lời khai về việc có mua bán ma túy nhiều lần, nhưng ngược lại D và H chỉ khai nhận là mua bán ma túy một lần. Tại phiên tòa sơ thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức đã đề nghị mức hình phạt đối với các bị cáo (K, H, D) mỗi bị cáo từ 07 năm đến 08 năm tù. Tòa án nhân dân quận Thủ Đức đã tuyên phạt bị cáo Nguyễn Duy K 09 năm tù, Nguyễn Thanh H 08 năm tù và Đinh Thị Thùy D 07 năm tù.
[3] Ngày 16/11/2017, Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 27/11/2017 bị cáo Nguyễn Duy K làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt là trong hạn luật định nên hợp lệ.
[4] Xét nội dung kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Duy K biết rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người, là nguyên nhân của các tệ nạn khác trong xã hội, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội và nhà nước nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi mua bán ma túy. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho hội, đã xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý phạm tội. Việc mua bán ma túy cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến làm tăng tệ nạn nghiện ngập và phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác, do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa.
[5] Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét đến hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoàn cảnh và nhân thân của bị cáo. Trong vụ án này, bị cáo K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung là phạm tội nhiều lần, bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, đó là thật thà khai báo; ăn năn hối cải. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm chứng cứ gia đình bị cáo K thuộc gia đình có công với Cách mạng (ông ngoại được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì, bà ngoại được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, có cụ ngoại được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng); bản thân bị cáo có con nhỏ sinh năm 2017 (tại Giấy khai sinh số 268 của cháu Nguyễn Gia Cát S có mẹ là Võ Thị L và có cha là Nguyễn Duy K), do đó cần áp dụng các tình tiết nêu trên là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 cho bị cáo. Như vậy, xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ nêu trên thì mức án 09 năm tù mà cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo là quá nghiêm khắc, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo và sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đối với bị cáo H, bị cáo D tại phiên tòa sơ thẩm không thật thà khai báo nhưng Tòa án cấp sơ thẩm vẫn cho 02 bị cáo này được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 là không có căn cứ. Nhưng đối với 02 bị cáo này do không bị kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét.
[6] Lập luận trên đây cũng là căn cứ để không chấp nhận lời đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Duy K và sửa bản án sơ thẩm.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009;
Xử phạt: Nguyễn Duy K 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/5/2017.
- Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo không phải nộp.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 38/2018/HS-PT ngày 25/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 38/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/01/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về