Bản án 38/2017/HSST ngày 26/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỘI AN- TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 38/2017/HSST NGÀY 26/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2017/HS-ST ngày 11/8/2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2017/HSST-QĐ ngày 25/8/2017, đối với bị cáo:

Hoàng Q., sinh năm: 1990, tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.

Nơi đăng ký nhân khẩu thường và chỗ ở hiện nay: Số 15, đường Cao Thắng, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam

Số chứng minh nhân dân: 205601678, do Công an tỉnh Quảng Nam cấp ngày 08/3/2011

Nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Trình độ học vấn: 9/12. Dân tộc: Kinh. Quốc tịch: Việt Nam

Con ông Hoàng Phương L. (đã chết) và bà Trần Thị M. (còn sống).

Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai, chưa có vợ con. Tiền án: Không

Tiền sự: Ngày 28/4/2017, bị Công an phường Sơn Phong, thành phố Hội An ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Nhân thân: Ngày 27/6/2011 bị Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục với thời hạn 24 tháng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ lưu giam Công an thành phố Hội An từ ngày 11/9/2017, “Có mặt”

Người bị hại: Bà Trần Thị M., sinh năm: 1959

Nơi cư trú: Số 02, đường Nguyễn Trãi, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. “Có mặt”

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

01/ Bà Phạm Thị D., sinh năm: 1975

Nơi cư trú: Thôn 7, xã Hương An, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. “Có mặt”.

02/ Ông Văn Đức P., sinh năm: 1988

Nơi cư trú: Khối 5, phường Điện Dương, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 25/6/2017, sau khi đi chơi về lại nhà số 15, đường Cao Thắng, thành phố Hội An, Hoàng Q. gặp mẹ là bà Trần Thị M. nên mượn số tiền 1.000.000 đồng, bà M. trả lời không có rồi vào phòng ngủ. Do bực tức không được bà M. cho mượn tiền, Q. nhặt một thanh kim loại hình khối, rỗng bên trong, dài 75cm, màu bạc ở trước nhà đập gãy một máy quạt trong nhà. Sau đó, Q. vào phòng ngủ gây gỗ, có những lời lẽ xúc phạm bà M.. Trong lúc giằng co, vùng trán trên sóng mũi gần mắt phải của bà M. bị thương chảy máu. Thấy vậy, Q. để bà M. đi ra ngoài. Sau đó, bà M. đi báo Công an phường Sơn Phong, còn Q. tiếp tục dùng thanh kim loại đập vỡ một màn hình ti vi và đập gãy một chiếc máy quạt. Lúc này, chỉ có một mình Q. trong phòng ngủ nên Q. nảy sinh ý định trộm cắp tiền của bà M.. Q. đi đến tủ gỗ dùng tay giật mạnh cửa tủ thấy có 01 ví da màu đen, mặt đáy ví dạng bầu dục, kích thước 10cm X 15cm. Huy mở ví ra xem thấy bên trong có nhiều tiền với nhiều tờ mệnh giá khác nhau, từ lớn nhất 500.000 đồng đến thấp nhất 5.000 đồng và 04 tờ đôla Mỹ, trong đó có 03 tờ mệnh giá 100 đôla, 01 tờ mệnh giá 50 đôla nên cất ví da vào trong túi quần rồi điều khiển xe ra khỏi nhà. Với số tiền trên, Q. trả nợ cho Văn Đức P. 1.000.000 đồng và 01 tờ mệnh giá 100 đôla Mỹ. Tiếp đó, Q. đến một cửa hàng không rõ tên, địa chỉ ở thành phố Đà Nẵng đổi 250 đôla Mỹ ra số tiền 5.675.000 đồng, rồi vào xã Hương An, huyện Quế Sơn cho chị Phạm Thị D. (là bạn của Q.) mượn số tiền 15.000.000 đồng. số tiền còn lại Q. tiêu xài cá nhân. Đến ngày 28/6/2017, Q. bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hội An mời về làm việc. Tại đây, Q. đã khai nhận toàn bộ sự việc. Bà Trần Thị M. khai tài sản bị trộm cắp gồm 01 chiếc ví da màu đen bên trong có 19.125.000 đồng và 350 đô la Mỹ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 53/KL-ĐGTS ngày 13/7/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hội An xác định 350 đô la Mỹ tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 7.875.000 đồng.

Tại Kết luận định giá tài sản số 52/KL-ĐGTS ngày 12/7/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hội An xác định giá trị hư hỏng các bộ phận của 01 chiếc ti vi và 02 chiếc quạt máy là 250.000 đồng.

Bản cáo trạng số 31/CTr-VKS ngày 10/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hội An truy tố bị cáo Hoàng Q. về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Lời khai của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại và các chứng cứ khác đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Hoàng Q. về tội “Trộm cắp tài sản”. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (Sửa đổi bổ sung năm 2009), xử phạt Hoàng Q. từ 09 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) thanh kim loại hình khối, rỗng bên trong, dài 75cm, màu bạc.

Lời khai của người bị hại có trong hồ sơ là phù hợp với lời khai của bị cáo về diễn biến vụ án.

Bị cáo ân hận về hành vi của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hội An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hội An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Q. khai nhận: Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 25/6/2017, tại nhà ở số 15, đường Cao Thắng, thành phố Hội An, Hoàng Q. đã có hành vi lén lút trộm cắp của mẹ ruột là bà Trần Thị M. số tiền 19.125.000 đồng (Mười chín triệu một trăm hai lăm ngàn đồng) và 350 (Ba trăm năm mươi) đô la Mỹ. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 27.000.000 đồng (Hai mươi bảy triệu đồng). Lời khai của bị cáo là phù hợp với nội dung Bản cáo trạng, ý kiến của người bị hại, phù hợp với Kết luận định giá tài sản số 53/KL-ĐGTS ngày 13/7/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hội An và các chứng cứ khác đã được xem xét, đánh giá tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở khẳng định bị cáo Hoàng Q. đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Hoàng Q. biết rõ hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện; bị cáo lợi dụng lúc mẹ ruột là bà Trần Thị M. rời khỏi nhà và đã lén lút trộm cắp của bà M. số tiền 19.125.000 đồng (Mười chín triệu một trăm hai lăm ngàn đồng) và 350 (Ba trăm năm mươi) đô la Mỹ. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 27.000.000 đồng (Hai mươi bảy triệu đồng). Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến xã hội và tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Xét nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Bị cáo Hoàng Q. không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng có nhân thân xấu, bị cáo có một tiền sự về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” và bị Công an phường Sơn Phong, thành phố Hội An xử phạt hành chính số tiền 750.000 đồng vào ngày 28/4/2017, nhưng chưa chấp hành xong hình phạt; ngày 27/6/2011 bị Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục với thời hạn 24 tháng về hành vi “Trộm cắp tài sản” và đã được rèn luyện, giáo dục về ý thức chấp hành pháp luật, nhưng bị cáo không có sự tiến bộ mà còn coi thường pháp luật. Trong thời gian tại ngoại chờ xét xử, bị cáo đã bỏ trốn khỏi địa phương, gây trở ngại cho công tác xét xử và bị bắt theo lệnh truy nã.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tại phiên tòa, bị cáo được mẹ ruột Trần Thị M.– Đồng thời là người bị hại của vụ án xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, do đó bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm và cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục, đồng thời góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm.

Đối với hành vi của Hoàng Q. đập phá tài sản là 01 chiếc ti vi và 02 chiếc máy quạt gây thiệt hại cho bà Trần Thị M. 250.000 đồng (Hai trăm năm mươi ngàn đồng). Do chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên cơ quan Cảnh sát điều tra không khởi tố vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu hồi được 5.450.000 đồng (năm triệu bốn trăm năm mươi ngàn đồng) mà Hoàng Q. đã trộm cắp và đã trả lại cho bà Trần Thị M. Tại phiên tòa, bà M. tự nguyện rút lại yêu cầu Hoàng Q. phải bồi thường số tiền còn lại là 21.550.000 đồng. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của bà M. và không buộc bị cáo phải bồi thường cho bà Trần Thị M. số tiền còn lại là đúng quy định pháp luật. Đối với hành vi đập phá tài sản của Hoàng Q. gây thiệt hại cho bà Trần Thị M. số tiền 250.000 đồng, do bà M. không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ 01 (Một) thanh kim loại hình khối, rỗng bên trong, dài 75cm, màu bạc mà Hoàng Q. sử dụng để đập phá tài sản. Do không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Q. phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi bổ sung); phạt bị cáo Hoàng Q. (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/9/2017.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 (Một) thanh kim loại hình khối, rỗng bên trong, dài 75cm, màu bạc. (Vật chứng hiện do Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hội An quản lý)

Về án phí: Bị cáo Hoàng Q. phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 26/9/2017); đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2017/HSST ngày 26/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:38/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hội An - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về