Bản án 380/2019/HSPT ngày 21/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 380/2019/HSPT NGÀY 21/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 360/2019/TLPT-HS ngày 24 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Hữu P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1570/2019/QĐXXPT-HS ngày 08 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Hữu P; Sinh ngày 15 tháng 8 năm 1992 tại Quảng Nam; Nơi cư trú: tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: 9/12; giới tính; Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hữu L (s) và bà Lê Thị M (s); Có vợ Lê Thị Ánh L và có 02 con (con lớn sinh năm 2014; con nhỏ sinh tháng 2/2019); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 26/3/2019. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hữu P: Lut sư Lê Thị Hồng T- Văn phòng luật sư Lthuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 22 giờ phút ngày 26/3/2019, tại ngã tư H - N, thuộc địa bàn phường H 1, quận H, thành phố Đà Nẵng. Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy công an quận H, thành phố Đà Nẵng phát hiện Nguyễn Hữu P có hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên đã đưa P về trụ sở công an phường H 1, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Hữu P.

Tang vật thu giữ:

- 01 gói ni long màu trắng có kích thước khoảng 13,5cm x 8cm bên trong có chứa 15 (mười lăm) viên nén hình tròn màu xanh; 01 gói ni long kích thước khoảng 6,5cm x 3,5cm; 02 gói ni long kích thước khoảng 6,5cm x 3,5cm đều được hàn kín, bên trong đều chứa tinh thể rắn màu trắng, được niêm phong ký hiệu: B1 - 02 gói ni long kích thước khoảng 0,7cm x 4cm, bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng, được niêm phong ký hiệu: B2 - 01 vỏ thuốc hiệu Bastos, bên trong có chứa 01 gói ni long được hàn kín có kích thước khoảng 13,5cm x 7,5cm, bên trong có chứa 03 gói ni long kích thước khoảng 7cm x 4cm đều chứa tinh thể màu trắng được niêm phong, ký hiệu: B3 - Số tiền 4.500.000 đồng.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ, có gắn sim 0935341530.

- 01 xe mô tô màu đỏ gắn BKS 43K7-2029.

Qua điều tra xác định:

Khong 12 giờ 00 phút ngày 26/3/2019, Nguyễn Hữu P đang uống nước tại khu vực bến xe Trung tâm Đà Nẵng (P không nhớ rõ địa chỉ cụ thể), trong lúc P điện thoại để hỏi mượn tiền xử lý công việc làm ăn thì có người tên Q ngồi uống nước bên cạnh đến nói với P “Nếu cần tiền thì giúp Q đi lấy số ma túy về cất giấu, khi nào có khách mua hàng thì Q sẽ liên lạc chỉ dẫn P đi giao ma túy”, giao xong số ma túy trên thì Q trả tiền công cho P với số tiền 4.000.000đ (bốn triệu đồng). Do muốn có tiền nên Nguyễn Hữu P nhận lời bán ma túy cho Q và đồng thời cho Q số điện thoại của P.

Đến khoảng 12 giờ 30 phút, Q dùng số điện thoại 0899.867.769 gọi cho P theo số 0935.341.530 chỉ dẫn P điều khiển xe mô tô BKS: 43K7-2029 đến gốc cây ở đường T, thành phố Đà Nẵng để lấy ma túy. Sau đó, P lấy số ma túy trên và cất giấu trong túi quần và bỏ trên xe mô tô BKS: 43K7-2029. Khoảng 22 giờ cùng ngày, P điều khiển xe mô tô nói trên chở Văn Thị Thu H đi ăn tối thì Q dùng số điện thoại 0899.867.769 nhắn tin vào số điện thoại của P 0935.341.530 với nội dung: “0901.177.907 beo 5 kẹo 1 khay! Lấy 4,5tr”. Khi đọc với nội dung tin nhắn trên, P hiểu sẽ liên lạc với số điện thoại 0901.177.907 và giao 05 (năm) viên thuốc lắc, 01 (một) chỉ khay Ketamine lấy số tiền 4.500.000 (bốn triệu năm trăm ngàn đồng). Sau đó, P gọi điện thoại cho Beo theo số 0901.177.907 và hẹn giao dịch mua bán ma túy tại T Club Đà Nẵng. Khi P đến ngã tư đường N – H thành phố Đà Nẵng để giao ma túy thì bị bắt quả tang.

Kết luận giám định số: 98/GĐ-MT ngày 03/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - CATP Đà Nẵng kết luận:

- Các viên nén trong mẫu niêm phong ký hiệu “B1.1” gởi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng viên nén mẫu “B1.1”: 4,598 gam.

- Tinh thể rắn màu trắng trong mẫu niêm phong ký hiệu “B1.2”, “B2”, “B3” gởi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng tinh thể mẫu “B1.2”: 4,965 gam; “B2”: 2,421 gam; “B3”: 19,665 gam.

- Tinh thể rắn màu trắng trong mẫu niêm phong ký hiệu “B1.3”: 1,456 gam.

Như vậy tổng khối lượng ma túy, loại Methamphetamine, MDMA Ketamine thu giữ là: 33,105 gam (trong đó: MDMA: 4,598 gam; Methamphetamine: 27,051 gam và Ketamine: 1,456 gam).

Với nội dung trên tại Bản án HS-ST số 61/2019/HS-ST ngày 29/9/2019 Tuyên xử : Bị cáo Nguyễn Hữu P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

n cứ điểm h khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu P 15 (Mười lăm) năm tù.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về phần hình phạt bổ sung nhưng bị cáo không kháng cáo, không bị kháng cáo kháng nghị về phần này; tuyên phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Sau khi xử sơ thẩm ngày 27 tháng 9 năm 2019 bị cáo Nguyễn Hữu P có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin xét xử theo trình tự phúc thẩm để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại phiên tòa bị cáo bổ sung kháng cáo xin giảm mức phạt tiền.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Hữu P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung án sơ thẩm đã xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người. Bị cáo chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt sớm về với gia đình và xã hội nhưng không bổ sung được tình tiết gì mới .

Luật sư Lê Thị Hồng T người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hữu P thống nhất về điểm, khoản và tội danh như nội dung án sơ thẩm. Tuy nhiên, Luật sư cho rằng mức án mà cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là có phần hơi nghiêm khắc và nêu một số tình tiết giảm nhẹ như: sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình nuôi hai con nhỏ dại, vợ mới sinh con vào tháng 2/2019, chưa có việc làm ổn định; cha bị cáo bị bệnh nằm một chỗ đã lâu; bị cáo phạm tội là do suy nghĩ chưa chín chắn..., đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, sửa án sơ thẩm, giảm cho bị cáo một phần hình phạt nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên Tòa án phúc thẩm: Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đề HĐXX nghị bác kháng cáo bị cáo Nguyễn Hữu P, y án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thuộc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Nẵng và VKS nhân dân thành phố Đà Nẵng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì, Kháng cáo bị cáo trong hạn luật định đúng pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 26/3/2019, khi P điều khiển xe mô tô BKS: 43K7-2029 chở bạn gái là Văn Thị Thu H đi ăn tối thì Q dùng số điện thoại 0899.867.769 nhắn tin vào số điện thoại của P 0935.341.530 với nội dung: “0901.177.907 beo 5 kẹo 1 khay! Lấy 4,5tr”. Khi đọc với nội dung tin nhắn trên, P tự hiểu sẽ liên lạc với số điện thoại 0901.177.907 và giao 05 (năm) viên thuốc lắc, 01 (một) chỉ khay Ketamine lấy số tiền 4.500.000 (bốn triệu năm trăm ngàn đồng). Sau đó, P đã gọi điện thoại cho Beo theo số 0901.177.907 và hẹn giao dịch mua bán ma túy tại T Club Đà Nẵng. Khi P đến ngã tư đường N – H thành phố Đà Nẵng để giao ma túy thì bị cơ quan công an phát hiện và bắt quả tang, thu giữ toàn bộ số ma túy trên. Như vậy, Tòa sơ thẩm xét xử Nguyễn Hữu P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo thì thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý, mà còn ảnh hưởng xấu nên tình hình trật tự trị an xã hội, góp phần làm gia tăng các loại tội phạm khác. Do đó đối với bị cáo cần xử lý nghiêm, cần thiết cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Xét thấy cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình và xử phạt bị cáo mức án 15 năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Bị cáo kháng cáo nhưng không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ nào mới để HĐXX xem xét. Do vậy cấp phúc thẩm không có căn cứ để xét giảm án theo kháng cáo, nên bác yêu cầu kháng cáo y án sơ thẩm như đề nghị của đại diện của VKS tại phiên tòa .

[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hữu P phải chịu án phí hình sự phúc thẩm thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 355; Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu P, giữ nguyên án sơ thẩm.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ điểm h khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. 

Xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Hữu P 15 (Mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 26 tháng 3 năm 2019.

Hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 251 BLHS: Phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để sung công quỹ nhà nước.

2. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Nguyễn Hữu P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên hôm nay

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 380/2019/HSPT ngày 21/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:380/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về