Bản án 379/2019/HS-PT ngày 06/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 379/2019/HS-PT NGÀY 06/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 260/HSPT ngày 09/7/2019 đối với bị cáo Phạm Tư L do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận B và kháng cáo của bị cáo Phạm Tư L đối với bản án hình sự sơ thẩm số 96/2019/HS-ST ngày 27/5/2019 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo bị kháng nghị và có kháng cáo: Phạm Tư L, sinh năm 1977 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 361/14/38C Bến Bình An, Phường 15, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 141/29/19 Lưu Hữu Phước, Phường 15, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Văn Kh (sinh năm 1953); Con bà: Kiều Thị Kim Ch (sinh năm 1956); Vợ: Phạm Thị Bích Tr, sinh năm 1984; Có 02 con, lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2003; Tiền sự: Ngày 08/5/2018, bị Ủy ban nhân dân phường BT, quận B ra quyết định số 475 đưa người nghiện ma túy vào Cơ sở xã hội Nhị Xuân để quản lý cắt cơn, giải độc. Đến ngày 06/7/2018, Ủy ban nhân dân phường BT, quận B hủy quyết định đưa người nghiện ma túy vào Cơ sở xã hội Nhị Xuân để quản lý cắt cơn, giải độc; Tiền án:

- Ngày 01/7/2009 bị Tòa án nhân dân Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án số 271/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/6/2016, đóng án phí ngày 26/3/2010.

- Ngày 08/12/1995, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 1758/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/01/1996, đóng án phí ngày 12/8/2003.

- Ngày 17/3/1999, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 600/HSST (Không xác định giá trị tài sản). Chấp hành xong hình phạt từ ngày 26/01/2000. Ngày 09/01/2019 Chi cục thi hành án dân sự Quận K có văn bản trả lời Phạm Tư L chưa thi hành án phí; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày: 21/12/2018. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 01 giờ 30 phút ngày 21/12/2018, Tổ trinh sát đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận B tuần tra đến trước nhà số 631 Tỉnh lộ, khu phố 4, phường BT, quận B thì phát hiện Phạm Tư L có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện và thu giữ trong lòng bàn tay trái của L có 02 gói nylong chứa tinh thể rắn không màu, L khai nhận là ma túy tổng hợp nên tổ công tác đưa L về Công an phường BT, quận B lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang. Sau đó hồ sơ vụ án được chuyển đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận B thụ lý điều tra theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm: 02 (hai) gói nylon chứa tinh thể không màu; 01 (một) xe mô tô hiệu Honda, biển số 60S1-3769, số máy VUMHMYG150FMG-4B102386, số khung VHMDCG053HM00228669.

Tại bản kết luận giám định số 231/KLGĐ-H ngày 28/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 02 gói nylon niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Phạm Tư L, Trần Văn Thái (điều tra viên), Nguyễn Ngọc Tiến (người chứng kiến) và hình dấu Công an phường BT, quận B gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,2132g (không phẩy hai một ba hai gam), loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra Công an quận B, Phạm Tư L khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên vào lúc 01 giờ ngày 21/12/2018, L đi đến khu vực vòng xoay Phú Lâm, Quận 6 mua của một người thanh niên tên Đen không rõ nhân thân lai lịch 02 gói ma túy với giá 200.000 đồng, mua xong L cất giấu để sử dụng cho bản thân thì bị Công an bắt quả tang.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 96/2019/HS-ST ngày 27/5/2019 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Phạm Tư L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phạm Tư L 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/12/2018.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 07/6/2019 bị cáo Phạm Tư L làm đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 10/6/2019 Viện kiểm sát nhân dân quận B có Quyết định kháng nghị số 08/QĐ-VKS kháng nghị một phần bản án hình sự sơ thẩm số 96/2019/HS-ST ngày 27/5/2019 của Tòa án nhân dân quận B về việc áp dụng khung hình phạt và giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo Phạm Tư L. Đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Tư L khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nhận định án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là nghiêm khắc. Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận B là có căn cứ theo đúng quy định của pháp luật. Do đó, đề nghị chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận B và kháng cáo của bị cáo theo hướng có lợi cho bị cáo để giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không tranh luận, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hình thức đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã xử, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 01 giờ 30 phút ngày 21/12/2018, Tổ trinh sát đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận B tuần tra qua kiểm tra, phát hiện và thu giữ trong lòng bàn tay trái của L có 02 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu, bị cáo L khai nhận là ma túy tổng hợp.

Tại bản kết luận giám định số 231/KLGĐ-H ngày 28/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 02 gói nylon niêm phong là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,2132g (không phẩy hai một ba hai gam) loại Methamphetamine.

Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố và xét xử bị cáo Phạm Tư L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, không oan sai và phù hợp với quy định pháp luật.

[3] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử xét thấy:

Đối với bản án số 1758/HSST ngày 08/12/1995 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt bị cáo 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân” (chấp hành xong án phạt tù ngày 12/01/1996, đóng án phí ngày 12/8/2003); Đối với bản án số 600/HSST ngày 08/4/1999 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân” (giá trị tài sản chiếm đoạt là 12.600.000 đồng – bút lục 77), chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/01/2000, nhưng chưa chấp hành xong các quyết định khác của bản án. Do vậy bị cáo chưa đủ điều kiện xóa án tích theo quy định tại khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Đối với bản án số 271/2009/HSST ngày 01/7/2009 của Tòa án nhân dân Quận K xử phạt 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (chấp hành xong án phạt tù ngày 10/6/2016, đóng án phí ngày 26/3/2010), thời hạn xóa án tích là 03 năm tính từ ngày chấp hành xong hình chính và đã chấp hành xong hình phạt bổ sung – ngày 10/6/2016 theo điểm b khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do vậy đến ngày 10/6/2019 thì bị cáo mới đủ thời hạn xoá tiền án này nhưng ngày 21/12/2018 bị cáo đã phạm tội mới, nên chưa đủ điều kiện xóa án tích đối với bản này.

Xét thấy đối với 02 tiền án còn lại (bản án số 600/HSST ngày 08/4/1999 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân”, bản án số 271/2009/HSST ngày 01/7/2009 của Tòa án nhân dân Quận K xử phạt 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”); căn cứ vào khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì hành vi phạm tội ngày 21/12/2018 vẫn thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm như cấp sơ thẩm đã xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Từ đó không chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận B về khung hình phạt, giữ nguyên khung hình phạt xét xử của cấp sơ thẩm về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xét kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy bản án sơ thẩm đã xem xét toàn diện, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, mức hình phạt tòa sơ thẩm xét xử là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không đưa ra tình tiết giảm nhẹ hình phạt mới nào và mức hình phạt là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo L và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, sự.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình Không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận B; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Tư L; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ điểm o, khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Tư L 06 (sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 21/12/2018.

Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc: Bị cáo Phạm Tư L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 379/2019/HS-PT ngày 06/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:379/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về