TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 377/2020/HS-ST NGÀY 23/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 7 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 353/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 378/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2020 đối với:
- Bị cáo: Võ Văn Ngh (tên gọi khác: không), sinh năm 1989 tại tỉnh C; Nơi đăng ký thường trú: ấp K, xã Kh, huyện Tr, tỉnh C; địa chỉ cư trú: không cố định; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 03/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn L (đã chết) và bà Diệp Thị T; bị cáo chung sống như vợ chồng với chị Ngô Thị Th có 02 con sinh năm 2010 và 2011.
Tiền án: không; Tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 21 tháng 02 năm 2020 theo Lệnh bắt bị can để tạm giam số 160 ngày 06 tháng 02 năm 2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại: chị Hồ Thị N, sinh năm 1996, ngụ tại thôn Trà Ong, xã Trà Quân, huyện Tây Trà, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1971; địa chỉ: tổ 25, khu phố 6, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Nội dung chính của vụ án:
Võ Văn Ngh và chị Hồ Thị N, sinh năm 1996, ngụ tại thôn Trà Ong, xã Trà Quân, huyện Tây Trà, tỉnh Quảng Ngãi sống chung với nhau như vợ chồng tại phòng trọ số 11 của dãy nhà trọ địa chỉ số 140D, tổ 26, khu phố 6, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào ngày 20 tháng 10 năm 2018, chị N nhờ Võ Văn Ngh điều khiển xe môtô hiệu Yamaha Sirius màu đen xám, biển số 71B3-127.88 (do chị N mua lại của ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1971, ngụ tại tổ 25, khu phố 6, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) chở chị N đi làm tại Khu công nghiệp Amata thuộc phường Long Bình, thành phố Biên Hòa và hẹn Ngh chiều sẽ đón chị N về. Sau khi Ngh chở chị N đi làm và quay lại phòng trọ thì Ngh nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của chị N nên Ngh đã phá khóa valy lấy trộm số tiền 27.000.000 đồng (Hai mươi bảy triệu đồng) của chị N rồi tiếp tục sử dụng chiếc xe môtô trên của chị N đi đến phòng trọ của anh Nguyễn Văn Ng tại nhà trọ “Minh Phát” thuộc ấp S, xã B, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Tại đây, Ngh có giao chiếc xe trên cho anh Nguyễn Văn Ng mượn, sau đó do anh Ng gửi xe tại Hội chợ tại thị trấn Trảng Bom, huyện Trảng Bom nhưng làm mất thẻ xe nên người giữ xe đã giao chiếc xe trên cho Công an thị trấn Trảng Bom xử lý. Đến ngày 28 tháng 9 năm 2019, ông Đ phát hiện Ngh đang ở nhà trọ tại ấp S, xã B, huyện Tr nên báo Công an xã Bắc Sơn đến đưa Ngh về trụ sở làm việc, sau đó vụ việc được giao lại cho Công an phường L, thành phố Biên Hòa lập hồ sơ chuyên Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa điều tra, xử lý.
(Biên bản ghi lời khai của bị can tại các bút lục số: 22 – 35, 37, 38); (Biên bản ghi lời khai của người bị hại và người có quyền lợi, liên quan tại các bút lục số: 10 – 47, 49 – 54, 62, 63);
Vật chứng của vụ án gồm:
- 01 xe môtô hiệu Yamaha Sirius màu đen xám, biển số 71B3-127.88, số máy: 204584, số khung: 204584, thu giữ của ông Nguyễn Văn Đ, là tài sản của chị N mua lại của ông Đ với giá 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) nhưng chưa làm giấy tờ mua bán. Ông Đ đã giao xe cho chị N quản lý và sử dụng nhưng chưa giao Giấy đăng ký xe. Quá trình điều tra, do chị N chưa trả tiền mua xe nên chị N và ông Đ đã thống nhất trả lại chiếc xe trên cho ông Đ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã giao lại chiếc xe cho ông Đ; (Bút lục số: 65, 73) - Số tiền 27.000.000 đồng (Hai mươi bảy triệu đồng) của chị N, sau khi chiếm đoạt của chị N, bị cáo Ngh đã tiêu xài hết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu hồi được; (Bút lục số: 29-30) - 01 chiếc va ly màu đỏ bằng nhựa (kích thước 50cm x 35cm x 20cm; có hệ thống khóa số ngang hông), thu giữ của chị Hồ Thị N, là tài sản thuộc sở hữu của chị N nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho chị N; (Bút lục số: 66, 72)
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Hồ Thị N và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Đ không có yêu cầu bồi thường. (Bút lục số: 46, 48).
2. Truy tố:
Tại Cáo trạng số: 370/CT-VKSBH ngày 29/6/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố Võ Văn Ngh về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị: áp dụng Khoản 1, Điều 173 và Điểm b, s Khoản 1 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Võ Văn Ngh từ: 12 (mười hai) tháng đến 16 (mười sáu) tháng tù.
4. Ý kiến của những người tham gia tố tụng:
- Bị cáo Võ Văn Ngh: bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, xác định đã trả cho bị hại được 10.000.000đồng.
- Người bị hại Chị Hồ Thị N trình bày trong vụ án: Tài sản đã nhận lại nên không yêu cầu gì; xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tố tụng:
Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Người bị hại Hồ Thị N và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Đ vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên chị N, ông Đ không có yêu cầu bồi thường, đã có lời khai đầy đủ trong hồ sơ vụ án. Việc vắng mặt trên không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Tòa án xét xử vắng mặt theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:
- Những chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, kết luận định giá tài sản, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Vào khoảng 15 giờ ngày 23 tháng 10 năm 2018, tại phòng trọ số 11 thuộc dãy nhà trọ địa chỉ số 140D, tổ 26, khu phố 6, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Võ Văn Ngh đã có hành vi trộm cắp số tiền 27.000.000 đồng (hai mươi bảy triệu đồng) của chị Hồ Thị N thì bị phát hiện, khởi tố, điều tra xử lý.
- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại được Nhà nước bảo vệ, gây ảnh hưởng trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo biết việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.
- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Võ Văn Ngh phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Như vậy, bản Cáo trạng số 370/CT-VKSBH ngày 29/6/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Võ Văn Ngh về tội “trộm cắp tài sản” theo các điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; được người bị hại bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt (bút lục 47); thuộc trường hợp được quy định tại điểm i, s của Khoản 1 và Khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Võ Văn Ngh để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của phát luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.
[3] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự:
Người bị hại là chị Hồ Thị N và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Đ không có yêu cầu bồi thường gì khác nên không xem xét.
[4] Về vật chứng và các vấn đề khác có liên quan vụ án:
Đối với hành vi của bị cáo Ngh liên quan đến chiếc xe môtô hiệu Yamaha Sirius màu đen xám, biển số 71B3-127.88: Kết quả điều tra chị N xác định chiếc xe trên do chị N và bị cáo Ngh thống nhất chung nhau tiền để mua; vào ngày 20 tháng 10 năm 2018 chị N đã giao xe cho bị cáo để sử dụng và đưa đón chị N đi làm, cùng ngày sau khi lấy trộm số tiền 27.000.000 đồng (Hai mươi bảy triệu đồng) của chị N, bị cáo đã sử dụng chiếc xe môtô hiệu Yamaha Sirius màu đen xám, biển số 71B3-127.88 đi đến xã Bắc Sơn, huyện Trảng Bom và giao xe cho anh Ng mượn, không cấu thành tội phạm nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp quy định pháp luật.
[5] Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm;
[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa:
- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh nêu trên và đề nghị mức hình phạt phù hợp nên được chấp nhận.
- Đối với phần trình bày của bị cáo được Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Võ Văn Ngh phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
1. Căn cứ Khoản 1, Điều 173; điểm i, s, Khoản 1 và Khoản 2, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Võ Văn Ngh 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21 tháng 02 năm 2020.
2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số:326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Võ Văn Ngh phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được hoặc bản án được hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 377/2020/HS-ST ngày 23/07/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 377/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về