Bản án 377/2020/HNGĐ-ST ngày 04/09/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHỤNG HIỆP-TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 377/2020/HNGĐ-ST NGÀY 04/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 04 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 281/2020/TLST- HNGĐ, ngày 30 tháng 6 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 120/2020/QĐXXST-HN, ngày 06 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên toà số 57/2020/QĐST-HN, ngày 24 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1985.

Địa chỉ: ấp 1, xã H, huyện H, tỉnh Hậu Giang.

2. Bị đơn: Trần Thạch L, sinh năm 1979. Địa chỉ: ấp 1, xã H, huyện H, tỉnh Hậu Giang. Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn Nguyễn Ngọc T (sau đây gọi chị T) trình bày: giữa chị và bị đơn Trần Thạch L (sau đây gọi anh L) qua tìm hiểu nhau mà tự nguyện quyết định đi đến hôn nhân vào năm 2007, có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống đến năm 2015 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do chồng chị không lo làm ăn, không lo cho đời sống gia đình, vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường cãi vã nhau, đã nhiều lần hoà giải hàn gắn tình cảm nhưng không thành nên đã sống ly thân và khoảng hai tháng nay thì chị dọn ra sống riêng. Do cuộc sống chung không hạnh phúc, chị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

-Về hôn nhân: xin ly hôn với anh L.

-Về con chung: có hai người con chung tên Trần Thị Tố Tr (nữ), sinh ngày 26 tháng 3 năm 2008 và cháu Trần Thị Thùy Tr (nữ), sinh ngày 08 tháng 5 năm 2012. Từ khi ly thân đến nay thì các con sống với anh L, chị cũng có nguyện vọng được nuôi con nhưng tại phiên tòa hôm nay chị xác định: do hai con đều có nguyện vọng sống với cha. Đồng thời, các cháu từ nhỏ đến nay đều sống chung với cha tại nhà ông, bà nội các cháu, hiện tại chị chưa có chỗ ở riêng phải thuê trọ nên chị cũng đồng ý cho anh L nuôi dưỡng các cháu nhưng phải dành cho chị được quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục các cháu.

-Về nợ và tài sản chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn Trần Thạch L vắng mặt nên không có lời trình bày.

Tại các bản tự khai ngày 23.7.2020, các cháu Trần Thị Tố T và cháu Trần Thị Thùy Tr trình bày: khi cha, mẹ cháu ly hôn, các cháu có nguyện vọng được sống với cha.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: về thủ tục tố tụng: Tòa án, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn; giao con chung cho bị đơn nuôi dưỡng; nguyên đơn chưa phải cấp dưỡng; về nợ và tài sản chung, không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp ly hôn được qui định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

[2] Về thủ tục tố tụng: anh Trần Thạch L được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do; căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử mở phiên tòa xét xử vắng mặt đối với anh L.

[3] Xét về quan hệ hôn nhân: chị T và anh L qua tìm hiểu nhau, tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2007, có đăng ký kết hôn ngày 23 tháng 4 năm 2007 tại Ủy ban nhân dân xã Tân Tiến, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp và được pháp luật thừa nhận.

[4] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị T, Hội đồng xét xử xét thấy: chị và anh L trong thời gian chung sống có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống nhưng không có giải pháp khắc phục để hoà giải, hàn gắn tình cảm mà đã sống ly thân; xét thấy thời gian ly thân thì tự ai người đó sống, không ai quan tâm, lo lắng cho ai. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tạo điều kiện để anh, chị được hòa giải đoàn tụ nhưng anh L vắng mặt, điều đó chứng minh, anh L cũng không còn quan tâm đến cuộc hôn nhân này. Đồng thời tại phiên tòa hôm nay, chị T xác định do anh L không thay đổi nên chị không còn tình cảm vợ chồng với anh L và cương quyết xin ly hôn; từ đó thấy rằng hôn nhân giữa anh, chị đã thật sự lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình có cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T.

[5] Về con chung: có hai người con chung, anh L và chị T không tranh chấp về quyền nuôi con. Xét từ khi ly thân đến nay thì các con chung sống với anh L, cả hai người con chung đều có nguyện vọng sống với anh L, chị T đồng ý để anh L nuôi dưỡng, nhằm tránh gây xáo trộn đời sống của các cháu cần tiếp tục giao các cháu cho anh L nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi hoặc khi chị T, anh L có yêu cầu khác.

[6] Về nghĩa vụ cấp dưỡng: anh L vắng, không có có yêu cầu cấp dưỡng tại phiên tòa nên không đặt ra xem xét. Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho chị T mà không ai có quyền cản trở.

[7] Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu nên không xem xét.

[8] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: nguyên đơn phải nộp theo quy định pháp luật.

Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

 1. Về hôn nhân: cho ly hôn giữa chị Nguyễn Ngọc T và anh Trần Thạch L.

2. Về nuôi con chung: Giao các cháu Trần Thị Tố T (nữ), sinh ngày 26 tháng 3 năm 2008 và cháu Trần Thị Thùy T (nữ), sinh ngày 08 tháng 5 năm 2012 cho anh Trần Thạch L được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu T, cháu Tr đủ 18 tuổi hoặc khi anh L, chị T có yêu cầu khác.

Chị Nguyễn Ngọc T chưa phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho chị Nguyễn Ngọc T mà không ai có quyền cản trở.

3. Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu, không xem xét

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: chị Nguyễn Ngọc T phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ từ 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004836, ngày 30 tháng 6 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang thành án phí, không phải nộp thêm.

Trường hợp quyết định này được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 377/2020/HNGĐ-ST ngày 04/09/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:377/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phụng Hiệp - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về