TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 376/2020/HS-PT NGÀY 12/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 12 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 304/2020/HSPT ngày 06 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Thị Thu Em do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 85/2020/HS- ST ngày 25-5-2020 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Thị Thu E; sinh năm 1979 tại tỉnh An Giang; trú tại: ấp E1, thị trấn E2, huyện E3, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 02/12; con ông Nguyễn Văn Ê (chết) và con bà Nguyễn Thị A; hoàn cảnh gia đình: bị cáo chưa có chồng, con; tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/01/2020, đến ngày 16/01/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (bị cáo có mặt tại phiên tòa).
- Người bào chữa:
Luật sư Phạm Văn T, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, làm việc tại Công ty Luật TNHH MTV Đ bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Thu E (có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Từ tháng 12/2019, Nguyễn Thị Thu E làm việc phụ quán tại quán phở của bà Nguyễn Thị H ở địa chỉ số 104 Đường H1, ấp H2, xã H3, huyện H4, Thành phố Hồ Chí Minh.
Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 30/12/2019, Thu E điều khiển xe Honda Lead đến quán của bà H làm việc. Đến khoảng 15 giờ 00 phút cùng ngày, lợi dụng lúc bà H không để ý, Thu E đem con heo đất màu vàng đã mua trước đó, lén lút đem vào phòng khách đánh tráo lấy con heo đất màu vàng của bà H, bỏ vào túi nylon màu đen, sau đó Thu E đem treo xe máy của mình, rồi tiếp tục vào làm việc. Khoảng 30 phút sau, lấy lý do chồng bị bệnh, Thu E xin bà H về quê, rồi điều khiển xe máy đến bờ Kênh D, khu phố D1, thị trấn H4, huyện H4. Tại đây, Thu E lấy con heo đất ra đập vỡ, đếm số tiền bên trong được 23.950.000 đồng rồi bỏ tiền vào cốp xe máy, còn con heo đất thì vứt xuống kênh. Sau đó, Thu E điều khiển xe về phòng trọ tại Tổ Ê1, khu phố Ê2, thị trấn H4. Thu E dùng số tiền chiếm đoạt được của bà H mua 01 đôi bông tai có giá 1.400.000 đồng, gửi cho mẹ ruột 5.200.000 đồng và tiêu xài cá nhân, còn lại 11.000.000 đồng. Sau khi nhận được tin báo của bị hại, ngày 10/01/2020, Cơ quan điều tra Công an huyện Củ Chi đã triệu tập Nguyễn Thị Thu E đến trụ sở công an làm việc và Thu E đã khai nhận toàn bộ sự việc.
Ngày 10/01/2020 và ngày 20/01/2020, Nguyễn Thị Thu E đã trả lại toàn bộ số tiền chiếm đoạt cho bà Nguyễn Thị H.
Theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 85/2020/HS-ST ngày 25-5-2020 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thu E phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt: Nguyễn Thị Thu E 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành (trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/01/2020 đến ngày 13/01/2020).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định. Sau khi Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 28/5/2020 bị cáo Nguyễn Thị Thu E có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo Nguyễn Thị Thu E khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản án sơ thẩm đã thể hiện, đồng thời giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: sau khi phân tích hành vi của bị cáo theo nội dung của bản án sơ thẩm, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo Nguyễn Thị Thu E về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, bị cáo Nguyễn Thị Thu E có nhiều tình tiết giảm nhẹ là: bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ là bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bản thân bị cáo là lao động chính trong gia đình, nuôi mẹ già bị tàn tật, nằm liệt một chỗ. Xét thấy bị cáo Thu E có đủ điều kiện được hưởng án treo theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo và sửa bản án hình sự sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức án 06 tháng tù, nhưng cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm.
- Luật sư Phạm Văn T bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Thu E thống nhất với tội danh, khung hình phạt xét xử bị cáo và đồng ý với ý kiến phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật Hình sự để cho bị cáo Thu E được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Nguyễn Thị Thu E là người làm thuê tại quán phở của bà Nguyễn Thị H, địa chỉ số 104 Đường H1, ấp H2, xã H3, huyện H4, Thành phố Hồ Chí Minh. Vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 30/12/2019, lợi dụng lúc bà H không để ý, Thu E đã lén lút đi vào phòng khách nhà bà Hưng rồi đánh tráo con heo đất màu vàng mà Thu E đã mua trước đó để lấy con heo đất màu vàng của bà H, sau khi đánh tráo thì Thu E bỏ con heo đất vào túi nylon màu đen rồi đem treo vào xe máy của mình và tiếp tục vào làm việc. Khoảng 30 phút sau, lấy lý do chồng bị bệnh, Thu E xin bà H về quê nhưng Thu E điều khiển xe đến bờ Kênh D, khu phố D1, thị trấn H4, huyện H4 và tại đây, Thu E lấy con heo đất ra đập vỡ, đếm số tiền bên trong được 23.950.000 đồng.
Sau khi chiếm đoạt số tiền nêu trên thì Thu E mua 01 đôi bông tai có giá 1.400.000 đồng, gửi cho mẹ ruột 5.200.000 đồng và tiêu xài cá nhân, còn lại 11.000.000 đồng. Ngày 10/01/2020, Cơ quan điều tra Công an huyện Củ Chi đã triệu tập Nguyễn Thị Thu E đến trụ sở công an làm việc. Tại đây, Thu E đã khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu.
Ngày 10/01/2020 và ngày 20/01/2020, Nguyễn Thị Thu E đã trả lại toàn bộ số tiền chiếm đoạt cho bà Nguyễn Thị H.
Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bị cáo Nguyễn Thị Thu E về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Ngày 25/5/2020, Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 28/5/2020 bị cáo Nguyễn Thị Thu E làm đơn kháng cáo xin hưởng án treo. Xét thấy đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên hợp lệ.
[3] Xét nội dung kháng cáo:
Bị cáo Nguyễn Thị Thu E đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại Nguyễn Thị H số tiền là 23.950.000 đồng. Bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì động cơ tư lợi mà bị cáo vẫn thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ nên cần có mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo.
Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến hành vi phạm tội, tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoàn cảnh và nhân thân của bị cáo.
Trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Thị Thu E có các tình tiết giảm nhẹ là: bị cáo tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo thành khẩn khai báo; có thái độ ăn năn hối cải. Và các tình tiết này thì Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng và tuyên phạt bị cáo mức án 06 tháng tù.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị Thu E xuất trình thêm tình tiết là bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bản thân bị cáo là lao động chính, đang phụng dưỡng mẹ già bị bệnh, mất sức lao động, nằm liệt một chỗ (theo xác nhận của Ủy ban nhân dân thị trấn E2, huyện E3). Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; sau khi chiếm đoạt số tiền 23.950.000 đồng thì bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại và bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bản thân bị cáo có trình độ học vấn thấp (02/12), bản thân bị cáo là người làm thuê và có hoàn cảnh khó khăn như đã nêu ở trên. Đồng thời, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có nhân thân tốt chưa phạm tội lần nào, nên không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách cũng đủ tác dụng giáo dục, phòng ngừa và cũng là tạo điều kiện để bị cáo có thể làm việc, phụng dưỡng mẹ già. Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo và sửa bản án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo.
[4] Lập luận trên đây cũng là căn cứ để chấp nhận lời đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và chấp nhận toàn bộ lời trình bày của Luật sư tại phiên tòa.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 345; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thu E và sửa bản án sơ thẩm.
Xử phạt: Nguyễn Thị Thu E 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, thời gian thử thách là 01 (một) năm, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (12/8/2020).
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân thị trấn Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo không phải nộp.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. (Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo).
Bản án 376/2020/HS-PT ngày 12/08/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 376/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về