Bản án 376/2020/HNGĐ-ST ngày 10/08/2020 về tranh chấp ly hôn giữa chị N với anh S

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 376/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN GIỮA CHỊ N VỚI ANH S

Ngày 10 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 169/2020/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 141/2020/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đoàn Thị N, sinh năm 1994; địa chỉ cư trú: Ấp Mỹ Thiện, xã MĐ, huyện C, tỉnh An Giang (có mặt).

- Bị đơn: Anh Phan Văn Bé Sáu, sinh năm 1995; địa chỉ cư trú: Mỹ S, xã MP, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 02 tháng 12 năm 2019 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị N trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh S sống chung năm 2006, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã MP. Quá trình chung sống anh S có người phụ nữ khác, vợ chồng đã ly thân hơn 01 năm. Nay nhận thấy tình trạng trầm trọng, vợ chồng không thể hàn gắn chung sống lâu dài được nữa, nên chị yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn S.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Quỳnh Nhi, sinh ngày 14/4/2007 và Nguyễn Hoàn Phú, sinh ngày 26/4/2011, hiện 02 cháu đang sống chung với chị, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng 02 cháu.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi 02 cháu theo quy định pháp luật, tính từ ngày Tòa án xét xử cho đến khi các cháu thành niên và có khả năng lao động.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh S đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng theo quy định pháp luật nhưng anh không gửi văn bản tự khai và không tham gia tố tụng nên không ghi nhận được ý kiến của anh.

Tại phiên tòa:

Chị N vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn, nuôi con chung và đề nghị cấp dưỡng nuôi con theo quy định; về tài sản chung và nợ chung không yêu cầu giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã thực hiện đúng, S đủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án là vi phạm Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị S được ly hôn anh S. Giao 02 cháu Nhi và Phú cho chị S trực tiếp nuôi dưỡng, đề nghị anh S cấp dưỡng nuôi con theo quy định. Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu giải quyết nên đề nghị không xem xét.

Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án gồm: Bản photo chứng minh nhân dân chị S; bản sao Giấy chứng nhận kết hôn; Bản sao giấy khai sinh của cháu Nhi, Phú; biên bản xác minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Tranh chấp của các đương sự là về ly hôn, bị đơn có địa chỉ thường trú tại địa bàn huyện C, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử các đương sự là phù hợp quy định pháp luật tại Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Chị S và anh S tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã MP theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 210 ngày 17 tháng 6 năm 2009, là phù hợp quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nên hôn nhân giữa chị S và anh S là hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, đời sống chung không hòa hợp anh chị ly thân đã lâu. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ nhưng anh S vắng mặt không lý do. Thời gian ly thân là thời gian để vợ chồng suy ngẫm và hàn gắn lại tình cảm vợ chồng, nhưng anh chị đã không hàn gắn được. Cho thấy anh chị đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chị S yêu cầu ly hôn với anh S là có cơ sở, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị S.

[2.2] Về nuôi con chung: Chị S và anh S có 02 con chung tên Nguyễn Quỳnh Nhi, sinh ngày 14/4/2007 và Nguyễn Hoàn Phú, sinh ngày 26/4/2011, hiện 02 cháu đang sống chung với chị, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng 02 cháu. Xét từ khi ly thân cho đến nay cháu Nhi, cháu Phú do chị S trực tiếp nuôi dưỡng, 02 cháu có nguyện vọng được chung sống với chị S, để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển về mọi mặt của cháu, tạo điều kiện cho cháu được ổn định về tâm lý, chỗ ở, sinh hoạt và học tập, Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu Nhi, cháu Phú cho chị S trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định pháp luật tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Anh S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị S yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật kể từ ngày xét xử sơ thẩm đến khi các cháu thành niên và có khả năng lao động. Xét thấy việc chăm sóc, nuôi dưỡng con phát triển toàn diện là quyền và nghĩa vụ của cha và mẹ. Do đó, chị S yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con là có căn cứ phù hợp quy định pháp luật. Theo quy định pháp luật trường hợp các bên không thỏa thuận được thì mức cấp dưỡng nuôi con không quá ½ mức lương cơ bản do Nhà nước quy định cho mỗi cháu trên mỗi tháng. Thời điểm xét xử sơ thẩm (số tiền cấp dưỡng thay đổi theo mức lương cơ bản do Nhà nước quy định).

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị S không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.5] Về án phí: Chị S phải chịu án phí hôn nhân - gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 235, Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273 và Điều 278 của Bộ luật Tố tụng dân sự:

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về hôn nhân: Chị N được ly hôn anh S.

Giấy chứng nhận kết hôn số 210 ngày 17 tháng 6 năm 2019 của Ủy ban nhân dân xã MP, huyện C, tỉnh An Giang cấp cho chị N và anh S không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về nuôi con chung: Chị S và anh S có 01 con chung tên 02 con chung tên Nguyễn Quỳnh Nhi, sinh ngày 14/4/2007 và Nguyễn Hoàn Phú, sinh ngày 26/4/2011. Giao con chung tên Nguyễn Quỳnh Nhi, sinh ngày 14/4/2007 và Nguyễn Hoàn Phú, sinh ngày 26/4/2011cho chị S trực tiếp nuôi dưỡng.

Anh S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh S có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

4. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về án phí: Chị Đoàn Thị Ngọt phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà chị Ngọt đã nộp theo biên lai thu số 0006362 ngày 12 tháng 3 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

6. Về quyền kháng cáo: Bà Đoàn Thị Ngọt và ông Phan Văn Bé Sáu có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 376/2020/HNGĐ-ST ngày 10/08/2020 về tranh chấp ly hôn giữa chị N với anh S

Số hiệu:376/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về