Bản án 374/2019/HNGĐ-ST ngày 09/04/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 374/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 09 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1253/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2018, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị P, sinh năm 1987

Địa chỉ: khu phố A, phường Linh X, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (có đơn xin vắng mặt)

2. Bị đơn: Ông Bùi Văn Đ, sinh năm 1978

Địa chỉ: Khu phố A, phường Linh X, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà Đỗ Thị P trình bày: Bà và ông Bùi Văn Đ tự nguyện kết hôn vào năm 2008 có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân xã Cẩm P, huyện Cẩm T, tỉnh Thanh H. Sau khi lập gia đình ông bà sống tự lập. Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc đến tháng 02/2018 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do ông Đ thường xuyên say xỉn, rồi la mắng, chửi vợ, con; những lúc nóng giận ông Đ còn đánh bà, từ đó vợ chồng không hợp nhau, không tin tưởng nhau, thường xuyên cãi vã, cuộc sống chung không mang lại hạnh phúc. Bà đã nhiều lần góp ý để vợ chồng hiểu nhau nhưng ông Đ vẫn không thay đổi nên từ tháng 10/2018 cho đến nay bà đã bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống cho đến nay, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Đ.

Về  con  chung:  Có  02  người  con  chung  tên  Bùi  Quang  T,  sinh  ngày 04/11/2008 và Bùi Quang T, sinh ngày 25/4/2014. Sau khi ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai người con chung, nếu ông Đ không đồng ý thì bà yêu cầu được trực tiếp nuôi người con chung tên Bùi Quang T; giao người con chung tên Bùi Quang T cho ông Đ trực tiếp nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có

Tại bản tự khai và tại các buổi hòa giải ông Bùi Văn Đ trình bày: Ông xác nhận thời gian kết hôn đúng như bà P trình bày. Theo ông mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ tháng 10/2018 nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, thường xuyên cãi vã, lúc say xỉn tôi có la mắng vợ con từ đó dẫn đến cuộc sống chung không mang lại hạnh phúc. Do vợ chồng giận nhau nên bà P bỏ về nhà cha mẹ ruột tại Thanh Hóa sinh sống, nay ông đã nhận thấy được hành vi của mình là sai nên ông cam kết sẽ khắc phục sửa đổi, ông xác định tình cảm vẫn còn, ông không đồng ý ly hôn và mong muốn đoàn tụ gia đình.

Về  con  chung:  Có  02  người  con  chung  tên  Bùi  Quang  T,  sinh  ngày 04/11/2008 và Bùi Quang T, sinh ngày 25/4/2014. Giả sử nếu Tòa án giải quyết ly hôn ông yêu cầu được nuôi người con chung tên Bùi Quang T; giao con chung tên Bùi Quang T cho bà P trực tiếp nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa hôm nay: Bà Đỗ Thị P có đơn xin vắng mặt trong quá trình xét xử vụ án; bị đơn ông Bùi Văn Đ xác định tình cảm không còn, ông đồng ý ly hôn. Mặc dù ý kiến của các đương sự thống nhất được tất cả các vấn đề nhưng do bà P có đơn xin vắng mặt tại phiên Tòa, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định.

 [1] Về tố tụng: Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Ông Bùi Văn Đ cư trú tại quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

 [2]  Về nội dung: Bà Đỗ Thị P và ông Bùi Văn Đ tự nguyện kết hôn và chung sống với nhau theo Giấy chứng nhận kết hôn ngày 26/3/2008 do Ủy ban nhân dân xã Cẩm P, huyện Cẩm T, tỉnh Thanh H cấp, do đó hôn nhân của ông bà là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.

Về yêu cầu xin ly hôn của bà Đỗ Thị P Hội đồng xét xử nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng là có, cuộc sống hôn nhân đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống hôn nhân không còn tồn tại, vợ chồng không còn gắn bó tình cảm, không còn trách nhiệm chăm sóc lẫn nhau và hiện nay các bên vẫn còn mâu thuẫn. Điều đó chứng tỏ ông bà không có khả năng giải quyết những mâu thuẫn phát sinh trong thực tế cuộc sống vợ chồng dẫn đến bà P cùng người con chung tên Bùi Quang T về nhà cha mẹ ruột sinh sống và vợ chồng ly thân. Việc này cũng đã được ông Đ thừa nhận và ông cũng đồng ý ly hôn vì tình cảm không còn. Căn cứ vào công văn trả lời xác minh tình trạng hôn nhân số 98/LĐTB ngày 29/01/2019 của Phòng Lao động thương binh và xã hội quận Thủ Đức thì lời trình bày của bà P và ông Đ về mâu thuẫn gia đình là có căn cứ. Xét thấy mâu thuẫn giữa các bên là không thể giải quyết, sự tin tưởng lẫn nhau trong cuộc sống vợ chồng cũng không còn, vì vậy căn cứ Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 nên chấp nhận yêu cầu của bà P về việc xin ly hôn với ông Đ.

Về con chung: Căn cứ vào lời trình bày của bà P và ông Đ, giấy khai sinh của người con được các đương sự thừa nhận và cung cấp trong hồ sơ vụ kiện, có cơ sở xác định quá trình sống chung bà P và ông Đ có 02 người con chung tên Bùi Quang T, sinh ngày 04/11/2008 và Bùi Quang T, sinh ngày 25/4/2014. Xét hiện tại người con chung tên Bùi Quang T đang sống với ông Đ; người con chung tên Bùi Quang T đang sống với bà P, cả 02 người con chung được chăm sóc tốt và được đi học, bà P và ông Đ có đủ khả năng và điều kiện chăm sóc con. Mặt khác theo thỏa thuận của bà P và ông Đ nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà P, giao con chung tên Bùi Quang T cho bà P trực tiếp nuôi dưỡng, ông Bùi Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng người con chung tên Bùi Quang T; không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xét.

Nợ chung: Không có.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, đúng quy định.

Về án phí: Căn cứ vào Luật phí và lệ phí năm 2015. Bà P phải nộp 300.000(ba trăm ngàn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 2 Điều 21, Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 238, Khoản 2 Điều 269, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1-/ Chấp nhận yêu cầu của bà Đỗ Thị P:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Đỗ Thị P được ly hôn ông Bùi Văn Đ.

Về  con  chung:  Có  02  người  con  chung  tên  Bùi  Quang  T,  sinh  ngày 04/11/2008 và Bùi Quang T, sinh ngày 25/4/2014.

Ông Bùi Văn Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng người con chung tên Bùi Quang T, sinh ngày 04/11/2008. Bà Đỗ Thị P trực tiếp nuôi dưỡng người con chung tên Bùi Quang T, sinh ngày 25/4/2014. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, ngh a vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, ngh a vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con. Việc cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi khi có lý do chính đáng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có.

2-/ Về án phí: Bà Đỗ Thị P phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm ngàn) đồng bà P đã nộp theo biên lại thu tiền tạm ứng án phí số 0022983 ngày 10/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức, bà P đã nộp đủ án phí. Ông Bùi Văn Đ không phải chịu án phí. 

3-/ Quyền kháng cáo: Ông Bùi Văn Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Bà Đỗ Thị P được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 374/2019/HNGĐ-ST ngày 09/04/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:374/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về