Bản án 373/2018/HS-ST ngày 22/11/2018 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 373/2018/HS-ST NGÀY 22/11/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 22 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 327/2018/TLST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 399/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Bùi Văn S, sinh năm 1984 tại tỉnh Quảng Bình; thường trú: Thôn T L, xã Qu H, huyện Qu Tr, tỉnh Qu B; tạm trú: Số 44/12 đường M, khu phố H, phường L X, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Bùi Văn Ch, sinh năm 1937 và con bà Bùi Thị V (đã chết); bị cáo có 05 anh chị ruột, lớn nhất sinh năm 1965, nhỏ nhất sinh năm 1981; bị cáo có vợ tên là Hoàng Thị M, sinh năm 1985; bị cáo có 02 con ruột, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2017; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 24/6/2016 Tòa án nhân dân thị xã Th A, tỉnh Bình Dương xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 06 tháng về tội Đánh Bạc, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 194/2016/HSST, thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị cáo tại ngoại, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Nguyễn Thanh S, sinh năm 1973; địa chỉ: Số 95/137 đường Đ T H, Phường B, quận B Th, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

2. Ông Quách Hữu Tr, sinh năm 1976; thường trú: Số 331A Khóm M, Phường T, thành phố B Tr, tỉnh Bến Tre; tạm trú: Hẻm 989 tỉnh lộ BB, phường B Ch, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

3. Ông Huỳnh Kim B, sinh năm 1984; thường trú: Số T đường L Nh H, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh; tạm trú: Số H đường Ch V T, phường L Th, thị xã Th A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

4. Ông Nguyễn Duy T, sinh năm 1988; thường trú: Ấp Tr Th B, xã M Qu, huyện Ph M, tỉnh Bình Định; tạm trú: Đường HS, Khu phố H, phường A Ph, thị xã Th A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

5. Ông Lê Văn H, sinh năm 1974; thường trú: Thôn Tr Qu N, thị trấn Ph M,huyện Ph M, tỉnh Bình Định, vắng mặt.

6. Ông Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1979; thường trú: Ấp M Ph T, xã M Th Tr,huyện T B, tỉnh Vĩnh Long; tạm trú: Số C đường Ng V T, phường L Th M, Quận C,mThành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

7. Ông Hồ Văn D, sinh năm 1990; thường trú: Thôn C Th, xã C H, huyện Qu Tr, tỉnh Quảng Bình; tạm trú: Số 37/7 tổ HB, khu phố T L, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

1. Ông Hoàng Văn H, sinh năm 1981; thường trú: Đường số N, khu phố B,mphường L X, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1992; thường trú: Thôn Đ B, thị trấn V Th,mhuyện V Th, tỉnh Bình Định, vắng mặt.

3. Ông Hòa Quang L, sinh năm 1981; thường trú: Số H khu phố T Thg, phường T B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; chỗ ở: Tổ 9B, khu phố Ch L, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

4. Ông Lê Duy T, sinh năm 1992; thường trú: Xóm M, Thôn C, xã P Đr, huyệnmKr B, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

5. Ông Bùi Tấn B, sinh năm 1961; thường trú: Ấp N, xã L S, huyện C M, tỉnhmĐồng Nai, vắng mặt.

6. Ông Nguyễn Xuân H, sinh năm 1985; thường trú: Xã H S, huyện T K, tỉnh Nghệ An; chỗ ở: Số 50D, Khu phố B, phường B H, thị xã Th A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 18/11/2017, bị cáo Hồ Văn D đi bộ đến kho T Ng địa chỉ tổ 27 khu phố Ch L, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương để xin việc, tại đây D gặp một số công nhân ngồi uống nước, trên bàn nước có bộ trò chơi bầu, cua, tôm cá, nai gà. D rủ cả nhóm chơi lắc bầu cua thắng thua bằng tiền, D làm cái cùng với Huỳnh Kim B, Nguyễn Văn T, Lê Văn H, Quách Hữu Tr, Nguyễn Duy T và một số đối tượng không rõ nhân thân chơi, người chơi đặt số tiền từ 10.000 đồng đến 50.000 đồng vào các ô tương ứng với bầu, cua, tôm, cá nai, gà. D dùng 01 cái hộp nhựa sau đó bỏ 03 viên xí ngầu có in hình bầu, cua, tôm, cá, nai, gà lắc và mở ra, tùy theo mặt của viên xí ngầu tương ứng với ô đặt tiền người chơi chọn để xác định thắng thua. Khi đang chơi bị cáo Bùi Văn S đến, D nói S phụ D chơi bầu cua, D đưa Sơn 1.700.000 đồng để S chung tiền cho người thắng hoặc S thu tiền của những người thua về cho D. Đến 14 giờ 15 phút cùng ngày Công an phường T Đ H, thị xã D A kiểm tra hành chính lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang đối với bị cáo S, Huỳnh Kim B, Nguyễn Văn Tr, Lê Văn H, Quách Hữu Tr, Nguyễn Duy T. Riêng bị cáo D và một số đối tượng khác cầm tiền trong sòng bài tẩu thoát, ngày 06/3/2018 bị cáo D đến Công an thị xã D A đầu thú.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) bộ lắc bầu cua gồm 01 đĩa nhựa, 01 (một) hộp nhựa, 03 (ba) cục xí ngầu, 01 (một) tấm giấy in hình bầu, cua, tôm, cá, nai, gà; 01 (một) xemô tô biển số 59S1- 432.59.

Quá trình điều tra xác định được như sau:

- Bùi Văn S là người đã có 01 tiền án về tội đánh bạc, chưa được xóa án tích. Ngày 18/11/2017 Sơn mang theo 12.200.000 đồng nhưng không sử dụng đánh bạc. Tuy nhiên S có vai trò phụ giúp Hồ Văn D đánh bạc, D làm cái lắc bầu cua, S cầm1.700.000 đồng của D đưa để chung chi cho người đánh bạc. Quá trình chơi thắng300.000 đồng, khi lực lượng Công an kiểm tra bắt giữ, Sơn vứt 2.000.000 đồng tại khu vực bãi xe không thu hồi được.

- Hồ Văn D sử dụng 1.700.000 đồng để đánh bạc, khi chơi thắng 300.000 đồng.

Toàn bộ số tiền D đưa S giữ, khi công an kiểm tra D tẩu thoát và không mang theo tiền.

- Huỳnh Kim B mang theo 6.000.000 đồng, sử dụng 1.000.000 đồng để đánh bạc, khi chơi B thua 700.000 đồng, còn lại 300.000 đồng vứt bỏ, khi Công an bắt giữ khôngthu hồi được, thu giữ trong người B 5.000.000 đồng.

- Quách Hữu Tr mang theo 750.000 đồng, sử dụng 50.000 đồng để đánh bạc, khimnchơi thua 50.000 đồng, khi bắt giữ thu giữ trong người Tr 700.000 đồng.

- Lê Văn H mang theo 800.000 đồng, sử dụng 100.000 đồng để đánh bạc, khi chơi không thắng, không thua, khi bắt giữ thu giữ trong người H 800.000 đồng.

- Nguyễn Văn Tr sử dụng 290.000 đồng để đánh bạc, khi chơi thua 80.000 đồng, khi bắt giữ thu giữ trong người Tr 210.000 đồng.

- Nguyễn Duy T mang theo 11.000.000 đồng, sử dụng 1.000.000 đồng để đánh

bạc, khi chơi thua 1.000.000 đồng, khi bắt giữ thu giữ trong người T 10.000.000 đồng.

Tổng số tiền bị cáo S cùng Hồ Văn D, Huỳnh Kim B, Quách Hữu Tr, Lê Văn H, Nguyễn Văn Tr, Nguyễn Duy T sử dụng đánh bạc là 4.440.000 đồng. Tổng số tiền thực tế thu được dùng vào việc đánh bạc là 310.000 đồng.

Đối với Huỳnh Kim B, Nguyễn Văn Tr, Lê Văn H, Quách Hữu Tr, Nguyễn Duy T có hành vi đánh bạc trái phép với tổng số tiền là 4.440.000 đồng, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A ra quyết định xử phạt hành chính mỗi người 1.500.000 đồng.

Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 59S1-43259, đây là tài sản hợp pháp của Bùi Văn S, S không sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A đã trả lại chiếc xe trên cho Bùi Văn S.

Đối với Hồ Văn D, do có sự thay đổi về chính sách pháp luật khi Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, áp dụng theo hướng có lợi cho bị can nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đã ra quyết định đình chỉ điều tra đối với Hồ Văn D.

Cáo trạng số 132/CT-VKS ngày 16/10/2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Bùi Văn S về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên bản cáo trạng, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 để xử phạt bị cáo Bùi Văn S từ 03 tháng đến 06 tháng tù, đồng thời tổng hợp hình phạt 09 tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 194/2016/HSST ngày 24/6/2016 Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 310.000 đồng là số tiền thực tế thu giữ khi đánh bạc nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (một) bộ lắc bầu cua gồm 01 (một) đĩa nhựa, 01 (một) hộp nhựa, 03 (ba) cục xí ngầu, 01 (một) tấm giấy in hình bầu, cua, tôm, cá, nai, gà là phương tiện sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt và bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về nội dung vụ án: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 18/11/2017, bị cáo Hồ Văn D đi bộ đến kho T Ng địa chỉ tổ 27 khu phố Ch L, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương để xin việc, tại đây D gặp một số công nhân ngồi uống nước, trên bàn nước có bộ trò chơi bầu, cua, tôm cá, nai gà. D rủ cả nhóm chơi lắc bầu cua thắng thua bằng tiền, D làm cái cùng với Huỳnh Kim B, Nguyễn Văn T, Lê Văn H, Quách Hữu Tr, Nguyễn Duy T và một số đối tượng không rõ nhân thân chơi, người chơi đặt số tiền từ10.000 đồng đến 50.000 đồng vào các ô tương ứng với bầu, cua, tôm, cá nai, gà. D dùng 01 cái hộp nhựa sau đó bỏ 03 viên xí ngầu có in hình bầu, cua, tôm, cá, nai, gà lắc và mở ra, tùy theo mặt của viên xí ngầu tương ứng với ô đặt tiền người chơi chọn để xác định thắng thua. Khi đang chơi bị cáo Bùi Văn S đến, D nói S phụ D chơi bầu cua, D đưa Sơn 1.700.000 đồng để S chung tiền cho người thắng hoặc S thu tiền của những người thua về cho D. Đến 14 giờ 15 phút cùng ngày Công an phường T Đ H, thị xã D A kiểm tra hành chính lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang đối với bị cáo S, Huỳnh Kim B, Nguyễn Văn Tr, Lê Văn H, Quách Hữu Tr, Nguyễn Duy T. Riêng bị cáo D và một số đối tượng khác cầm tiền trong sòng bài tẩu thoát, ngày 06/3/2018 bị cáo D đến Công an thị xã D A đầu thú.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) bộ lắc bầu cua gồm 01 đĩa nhựa, 01 (một) hộp nhựa,m 03 (ba) cục xí ngầu, 01 (một) tấm giấy in hình bầu, cua, tôm, cá, nai, gà; 01 (một) xe mô tô biển số 59S1- 432.59.

Quá trình điều tra xác định được như sau:

- Bùi Văn S là người đã có 01 tiền án về tội đánh bạc, chưa được xóa án tích. Ngày 18/11/2017 Sơn mang theo 12.200.000 đồng nhưng không sử dụng đánh bạc. Tuy nhiên S có vai trò phụ giúp Hồ Văn D đánh bạc, D làm cái lắc bầu cua, S cầm 1.700.000 đồng của D đưa để chung chi cho người đánh bạc. Quá trình chơi thắng 300.000 đồng, khi lực lượng Công an kiểm tra bắt giữ, Sơn vứt 2.000.000 đồng tại khu vực bãi xe không thu hồi được.

- Hồ Văn D sử dụng 1.700.000 đồng để đánh bạc, khi chơi thắng 300.000 đồng.

Toàn bộ số tiền D đưa S giữ, khi công an kiểm tra D tẩu thoát và không mang theo tiền.

- Huỳnh Kim B mang theo 6.000.000 đồng, sử dụng 1.000.000 đồng để đánh bạc, khi chơi B thua 700.000 đồng, còn lại 300.000 đồng vứt bỏ, khi Công an bắt giữ không thu hồi được, thu giữ trong người B 5.000.000 đồng.

- Quách Hữu Tr mang theo 750.000 đồng, sử dụng 50.000 đồng để đánh bạc, khi chơi thua 50.000 đồng, khi bắt giữ thu giữ trong người Tr 700.000 đồng.

- Lê Văn H mang theo 800.000 đồng, sử dụng 100.000 đồng để đánh bạc, khi chơi không thắng, không thua, khi bắt giữ thu giữ trong người H 800.000 đồng.

- Nguyễn Văn Tr sử dụng 290.000 đồng để đánh bạc, khi chơi thua 80.000 đồng, khi bắt giữ thu giữ trong người Tr 210.000 đồng.

- Nguyễn Duy T mang theo 11.000.000 đồng, sử dụng 1.000.000 đồng để đánh bạc, khi chơi thua 1.000.000 đồng, khi bắt giữ thu giữ trong người T 10.000.000 đồng.

Tổng số tiền bị cáo S cùng Hồ Văn D, Huỳnh Kim B, Quách Hữu Tr, Lê Văn H, Nguyễn Văn Tr, Nguyễn Duy T sử dụng đánh bạc là 4.440.000 đồng. Tổng số tiền thực tế thu được dùng vào việc đánh bạc là 310.000 đồng.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì “Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đếnm ba năm”.

Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Bùi Văn S, tuy số tiền sử dụng vào việc đánh bạc chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng bị cáo có 01 tiền án về tội Đánh bạc, chưa được xóa án tích nhưng vẫn tiếp tục đánh bạc, vì vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách nên buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án cho bị cáo hưởng án treo.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người vi phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ, đã có đủ cơ sở xác định: Hành vi của bị cáo đánh bạc dưới hình thức đánh bầu cua thắng thua bằng tiền nhằm mục đích tư lợi, sát phạt lẫn nhau là vi phạm pháp luật. Cáo trạng số 132/CT– VKS ngày 16 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên truy tố bị cáo Bùi Văn S về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 mĐiều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

 [3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là ít nghiêm trọng, nhưng đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm trật tự công cộng, trật tự xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được đánh bạcm dưới mọi hình thức ăn thua bằng tiền nhằm sát phạt lẫn nhau đều vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc, xem xét tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục cải tạo và mcó tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

 [4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

 [5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có cha là ông Bùi Văn Ch được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

 [6] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu thể hiện bị cáo có một tiền án về tội Đánh bạc, chưa được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, bị cáo hiện nay là công nhân lao động và là lao động chính trong gia đình, đang nuôi con nhỏ nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

 [7] Về xử lý vật chứng:

- Xét 310.000 đồng là số tiền thực tế thu giữ khi đánh bạc nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (một) bộ lắc bầu cua gồm 01 (một) đĩa nhựa, 01 (một) hộp nhựa, 03 (ba) cục xí ngầu, 01 (một) tấm giấy in hình bầu, cua, tôm, cá, nai, gà là phương tiện sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

 [8] Đối với Huỳnh Kim B, Nguyễn Văn Tr, Lê Văn H, Quách Hữu Tr, Nguyễn Duy T có hành vi đánh bạc trái phép với tổng số tiền là 4.440.000 đồng, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A ra quyết định xử phạt hành chính mỗi người 1.500.000 đồng; đối với 01 (một) xe mô tô biển số 59S1-43259, đây là tài sản hợp pháp của Bùi Văn S, S không sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đã trả lại chiếc xe trên cho Bùi Văn S và đối với Hồ Văn D, do có sự thay đổi về chính sách pháp luật khi Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực từ ngày01/01/2018, áp dụng theo hướng có lợi cho bị can nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A đã ra quyết định đình chỉ điều tra đối với Hồ Văn D là đúng theo quy định của pháp luật.

 [9] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đưa ra đối với bị cáo về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, mức hình phạt, xử lý vật chứng. Xét quan điểm đề nghị hình phạt của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, có cơ sở chấp nhận.

 [10] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn S phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

- Xử phạt bị cáo Bùi Văn S 03 (ba) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 09 (chín) tháng tù theo Bản án hình sự sơ thẩm số 194/2016/HSST ngày 24/6/2016 của Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương thành hình phạt chung của 02 bản án là 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt để thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 310.000 (ba trăm mười nghìn) đồng theo biên lai thu tiền số 00783 ngày 10/5/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã DĩAn, tỉnh Bình Dương.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) lắc bầu cua (01 tấm giấy có hình bầu, cua, tôm, cá, nai, gà; 01 (một) đĩa nhựa, 01 (một) hộp nhựa, 03 (ba) hột xí ngầu có 06 mặt hình bầu, cua, tôm, cá, nai, gà).

 (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/5/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự Dĩ An, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụnghình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Bùi Văn S phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 373/2018/HS-ST ngày 22/11/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:373/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về