Bản án 37/2021/HS-ST ngày 31/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 37/2021/HS-ST NGÀY 31/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

N. V. T (tên gọi khác: N), sinh ngày: 28 tháng 5 năm 1990; tại: tỉnh Tây Ninh. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: ấp B, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh; chỗ ở hiện nay: ấp T, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; cha N.V.M, sinh năm 1961 và bà T. T. C, sinh năm 1958; Vợ, con: Chưa có; tiền án: không có; tiền sự: ngày 25-01-2021 bị Công an xã L ra Quyết định số 22/QĐ-XPHC xử phạt 750.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26-01-2021 đến nay, (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các Tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 22 giờ 20 phút ngày 26-01-2021, tại ấp C, xã A, huyện B, Tây Ninh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh phát hiện N. V. T có hành vi cất giấu 01 bịch nylon màu trắng hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể rắn màu trắng (nghi là chất ma túy) nên lập biên bản quả tang tạm giữ người và tang vật để điều tra làm rõ.

Qua quá trình điều tra đã kết luận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy, vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 26-01-2021, T xin số điện thoại người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) từ một người bạn tên S. T gọi điện thoại cho người đàn ông này, mua 01 bịch ma túy đá với giá tiền 200.000 đồng. Người đàn ông này đến tại khu vực ấp C, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh giao ma tuý cho T xong, thì lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang T, người đàn ông bán ma túy chạy thoát.

Kết luận giám định số 153 ngày 29/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận: Mẫu chất tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 bịch nylon hàn kín (kí hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng 0,3443 gam.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) bịch nylon trong suốt, hàn kín, bên trong có chưa chất ma túy, ký hiệu M; 01 (một) điện thoại di động hiệu HUAWEI, số IMEI1: 860906034786423, số IMEI2: 860906034826229.

Kê biên tài sản: N. V. T không có tài sản nên Cơ quan điều tra Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh không kê biên tài sản.

Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của N. V. T, Cơ quan Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh đã phạt hành chính xong.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho T, do không rõ họ tên, địa chỉ nên chưa làm việc được, khi nào làm rõ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số: 28/CT-VKSBC ngày 07 tháng 4 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố N. V. T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, N. V. T đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo N. V. T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249, Điều 38 của Bộ luật hình sự; điểm s, Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo N. V. T từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo T.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ Luật hình sự, Điều 106 của Bộ Luật Tố tụng hình sự, đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo ăn năn hối cải, mong được Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận, bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy. Vào khoảng 22 giờ 20 phút ngày 26-01-2021, bị cáo đã có hành vi tàng trữ 0,3443 gam chất ma túy, loại Methamphetamine, mục đích là để sử dụng. Bị cáo đang đi bộ tại khu vực ấp C, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh thì bị bắt quả tang. Theo kết luận giám định số 153 ngày 29-01-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận: Mẫu chất tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 bịch nylon trong suốt, hàn kín (ký hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,3443 gam. Hành vi này có đủ cơ sở kết luận: bị cáo N. V. T phạm tội: “tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Vụ án mang tính chất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần nghiêm trị để có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Khi quyết định hình phạt có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

- Tình tiết tăng nặng: không có.

- Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Nhân thân: Bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy chưa được xem là chưa bị xử lý vi phạm hành chính lại phạm tội mới do đó, bị cáo có nhân thân xấu.

[5] Áp dụng hình phạt: xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị áp dụng hình phạt tù đối với bi cáo T là có căn cứ. Bị cáo T là người nghiện ma túy, phạm tội nghiêm trọng, do vậy cần áp dụng hình phạt tù để cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian, để cải tạo giáo dục cho bị cáo trở thành công dân tốt biết chấp hành pháp luật.

[6] Hình phạt bổ sung: xét thấy bi cáo T không có tài sản nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[7] Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo T, Cơ quan Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh đã phạt hành chính xong.

[8] Đối với người đàn ông bán ma túy cho T, do không rõ họ tên, địa chỉ nên chưa làm việc được, khi nào làm rõ xử lý sau.

[9] Về xử lý vật chứng:

- Đối với: 01 (một) bịch nylon trong suốt, hàn kín, bên trong có chưa chất ma túy loại Methamphetamine, ký hiệu M là tang vật phạm tội đồng thời là chất cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu HUAWEI, số IMEI1:

860906034786423, số IMEI2: 860906034826229, bị cáo đã sử dụng điện thoại này để gọi cho người đàn ông bán ma túy, đây là công cụ, phương tiện phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[6] Về án phí: Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo N. V. T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo N. V. T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26-01-2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bịch nylon trong suốt, hàn kín, ký hiệu M, bên trong chứa 0,3443 gam, chất ma túy loại Methamphetamine.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu HUAWEI, số IMEI1: 860906034786423, số IMEI2: 860906034826229 (Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14-4-2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Tây Ninh).

3. Về án phí: Căn cứ các Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30-12-2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Bị cáo T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo N. V. T biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2021/HS-ST ngày 31/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về