Bản án 37/2021/HS-ST ngày 30/08/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 37/2021/HS-ST NGÀY 30/08/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 8 năm 2021, tại Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 28/2021/TLHS-ST ngày 27 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2021 đối với các bị cáo:

1.Bị cáo Trịnh Thị D; (tên gọi khác: Không); Sinh ngày: 19/5/1961 tại Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ dân phố ĐT, phường ĐB, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Trình độ văn hóa: 01/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Trịnh Văn H (đã chết); Con bà: Kiều Thị N, sinh năm 1937; Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ 2; chưa có chồng, con; tiền án: 1: Tại bản án số 47/2010/HSST ngày 01/9/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xử phạt bị cáo 15 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy; Nhân thân: Tại bản án số 16/HSST ngày 07/9/1993 của Tòa án nhân dân huyện Võ Nhai, tỉnh Bắc Thái đã xử phạt bị cáo 30 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy; Tại bản án số 149/HSST ngày 21/9/1996 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Thái (nay là tỉnh Thái Nguyên) đã xử phạt bị cáo 6 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy; tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/4/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo (do Đoàn luật sư tỉnh Thái Nguyên cử): Luật sư Phạm Quốc C3, Văn phòng luật sư Đức Vinh thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thái Nguyên; (có mặt).

2.Bị cáo Nguyễn Thị T; (tên gọi khác: Không); Sinh ngày: 20/4/1974 tại Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ 7, phường QT, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Mạnh T1(đã chết); Con bà: Trần Thị Q, sinh năm 1942; gia đình có 6 anh chị em, bị cáo là con thứ 5; có chồng là Bùi Thế C, sinh năm 1970, có 2 con chung; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/4/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo (do Đoàn luật sư tỉnh Thái Nguyên cử): Luật sư Mạc Thị H1, Văn phòng luật sư An Toàn thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thái Nguyên; (có mặt).

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Bùi Thế H2, sinh năm 1998; Trú tại: Tổ 7, phường QT, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên (có mặt).

* Những người chứng kiến:

1. Ông Nguyễn Đức C1, sinh năm 1967; Trú tại: Tổ 8, phường HVT, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

2. Anh Lê Đức K, sinh năm 1980; Trú tại: Xóm V, xã CN, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

3. Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1957; Trú tại: Tổ dân phố ĐB, phường ĐB, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

4. Ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1968; Trú tại: Tổ dân phố ĐB, phường ĐB, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 45 phút ngày 01/4/2021, tại đoạn đường liên xóm thuộc xóm V, xã CN, TP TN, tỉnh Thái Nguyên, Phòng CSĐT tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Nguyên phát hiện Trịnh Thị D, sinh năm 1961 trú tại Tổ dân phố ĐT, phường ĐB, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên và Nguyễn Thị T, sinh năm 1974, trú tại Tổ 7, phường QT, TPTN, tỉnh Thái Nguyên đang có biểu hiện liên quan đến ma túy nên yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra đã phát hiện thu giữ trong chiếc mũ vải của Trịnh Thị D đang đội trên đầu 03 túi nilon màu đen, bên trong mỗi túi đều chứa các cục chất bột màu trắng, niêm phong trong phong bì ký hiệu D.

Kiểm tra Nguyễn Thị T phát hiện thu giữ trong túi quần dài bên trái T đang mặc 01 túi nilon màu đen, bên trong mỗi túi đều chứa các cục chất bột màu trắng, niêm phong trong phong bì ký hiệu T. Ngoài ra còn thu giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu vàng đã qua sử dụng, có số IC là 661E- RM217, lắp sim có số thuê bao 0865.689.938, niêm phong trong phong bì ký hiệu Đ, số tiền 20.000đ và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S sơn màu đen BKS 20B1-052.33, số máy JC43E1731436, số khung RLH5C431XBY169941.

Cùng ngày khám xét chỗ ở của Nguyễn Thị T tại tổ 7, phường QT, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên nhưng không phát hiện thu giữ gì. Khám xét chỗ ở của Trịnh Thị D, tại tổ dân phố ĐT, phường ĐB, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên kết quả: Thu giữ dưới gối trên gường ngủ của D số tiền 30.000.000 đồng, 01 giấy chứng minh nhân dân số 090025094 mang tên Trịnh Thị D và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masster vỏ màu đen lắp sim số 0363128296, niêm phong trong bì ký hiệu Z.

Tại bản kết luận giám định số 648/KL-KTHS ngày 09/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu các cục chất bột màu trắng trong phong bì niêm phong ký hiệu G gửi đến giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng gửi giám định là 1,06 gam, tổng khối lượng thu giữ ban đầu là 112,61 gam.

Mẫu các cục chất bột màu trắng trong phong bì niêm phong ký hiệu G1 gửi đến giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng gửi giám định là 1,24 gam, tổng khối lượng thu giữ ban đầu là 37,63 gam.

Quá trình điều tra xác định hành vi phạm tội của các bị cáo như sau: Khoảng 14 giờ ngày 01/4/2021có 01 người nam giới tên H nhà ở huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên gọi điện thoại di động cho T nhờ T tìm mua hộ 04 cây Heroine và hứa sẽ cho T 1.000.000 đồng nếu mua được ma túy, T đồng ý và hẹn H khi nào có ma túy sẽ thông báo lại. Sau đó T gọi điện thoại cho D nói có khách muốn mua 04 cây Heroine, D đồng ý bán và nói giá 04 cây heroine là 120.000.000 đồng, hẹn T khoảng 17 giờ 45 phút cùng ngày T đưa khách đến khu vực đường liên xóm thuộc xóm V, xã CN, TP Thái Nguyên để giao dịch mua bán ma túy. Sau đó T gọi điện thoại cho H thông báo lại nội dung nêu trên, H hẹn T khi nào đến thành phố Thái Nguyên sẽ gọi điện thoại cho T. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày H gọi điện thoại cho T nói H đang đứng ở cổng làng ĐT, phường ĐB, thành phố Thái Nguyên bảo T đến đón H, sau khi nhận điện thoại T một mình điều khiển xe mô tô BKS 20B1-052.33 đến cổng làng ĐT đón H đi đến khu vực D hẹn để mua bán ma túy. Khi T, H đi đến khu vực đường liên xóm thuộc xóm V, xã CN, thành phố Thái Nguyên thì thấy D đang đứng ở rìa đường, T bảo H đứng chờ còn T đến gặp D, tại đây D đưa cho T 01 túi heroine để kiểm tra thì bị tổ công tác của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng như trên.

Tại bản cáo trạng số 42/CT- VKSTN- P1 ngày 26/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên truy tố Trịnh Thị D và Nguyễn Thị T về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b Khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Trong lời luận tội tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên sau khi trình bày tóm tắt nội dung vụ án; đánh giá tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã kết luận, giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Tuyên bố: Các bị cáo Trịnh Thị D và Nguyễn Thị T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm b khoản 4 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự (áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo D): xử phạt bị cáo Trịnh Thị D mức án 20 năm tù; phạt bổ sung bị cáo từ 10 đến 15 triệu đồng. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T mức án 20 năm tù; phạt bổ sung bị cáo từ 5 đến 10 triệu đồng.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước của bị cáo D 1 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL và của bị cáo T 1 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia do các bị cáo đã sử dụng để liên hệ mua bán ma túy. Tạm giữ của bị cáo D 30.000.000đ của T 20.000 đ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo; Trả cho bị cáo D 01 chứng minh thư nhân dân; Trả cho anh H2 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave, BKS: 20B1 – 052.33. Tịch thu tiêu hủy các vật chứng còn lại theo quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo D nhất trí với tội danh mà cáo trạng đã truy tố. Tuy nhiên, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, có anh trai là liệt sỹ nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án 20 năm tù. Do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên đề nghị trả lại cho bị cáo số tiền 30 triệu đồng.

Luật sư bào chữa cho bị cáo T nhất trí với tội danh mà cáo trạng đã truy tố. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, vai trò của bị cáo thấp hơn bị cáo đầu vụ, bị cáo có mẹ đẻ được nhà nước tặng thưởng Huân chương nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án thấp nhất; Do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Đề nghị trả cho anh H2 chiếc xe mô tô do công an đã thu giữ.

Các bị cáo không tranh luận bổ sung gì, nhất trí với lời bào chữa của các vị luật sư. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[ 1] Về hành vi, quyết định tố tụng của điều tra viên cơ quan cảnh sát điều tra, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên; của người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đúng pháp luật.

Về thủ tục tố tụng tại phiên tòa hôm nay, những người chứng kiến vắng mặt nhưng đã có đủ lời khai tại cơ quan điều tra. Xét lời khai của họ là khách quan, không ảnh hưởng đến việc xét xử. Hội đồng xét xử sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và người tham gia tố tụng, quyết định tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật .

[2] Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập được có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của những người chứng kiến; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận: Do hám lời nên Nguyễn Thị T đã liên lạc với Trịnh Thị D để mua bán ma túy, D đồng ý. Hồi 17 giờ 45 phút ngày 01/4/2021, tại đoạn đường liên xóm thuộc xóm V, xã CN, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên Trịnh Thị D và Nguyễn Thị T đang giao dịch mua bán 04 túi ma túy thì bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng là 150,24 gam ma túy qua giám định kết luận là Heroine.

Với hành vi trên, cáo trạng số 42/CT-VKSTN-P1 ngày 26/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Trịnh Thị D và Nguyễn Thị T về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b Khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều luật như sau:

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy.

“1. Người nào….Mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm;

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a)...

b) Heroine ... có khối lượng 100 gam trở lên”.

[3] Xét tính chất của vụ án là đặc biệt nghiêm trọng; hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền quản lý, sử dụng chất ma túy của nhà nước, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn và tội phạm khác như trộm cắp, cướp của, giết người, gây mất trật tự trị an xã hội, gây sự hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Hành vi của các bị cáo cần phải được xét xử nghiêm minh để đảm bảo tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Đối với bị cáo D là người có nhân thân xấu, đã bị xét xử bằng 3 bản án cùng loại tội trong đó có 1 bản án chưa được xóa án tích nên xác định có 1 tiền án; Bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo và có anh trai là liệt sỹ nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đối với bị cáo T là người chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo và có mẹ đẻ được nhà nước tặng thưởng Huân chương nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính và hình phạt bổ sung:

Đối với hình phạt chính: Qua xem xét, đánh giá toàn diện vụ án, cần xử phạt mỗi bị cáo mức án phù hợp theo quy định của pháp luật.

Ngoài hình phạt chính, cần phạt bổ sung mỗi bị cáo một khoản tiền để sung quỹ nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[6] Về vật chứng vụ án được xử lý theo Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự cụ thể:

- Đối với 2 chiếc điện thoại di động đã thu giữ của các bị cáo D và T, theo các bị cáo khai đã sử dụng để liên hệ mua bán ma túy nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

- Đối với số tiền thu giữ của bị cáo D 30.000.000đ (là tiền do mẹ bị cáo cho) và số tiền của T 20.000đ (là tiền do lao động mà có) nên cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho các bị cáo;

- Trả cho bị cáo D 01 chứng minh thư nhân dân;

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave, BKS: 20B1 – 052.33 do cơ quan điều tra thu giữ của T. Quá trình điều tra xác định: chiếc xe đó có tên đăng ký là Nguyễn Xuân T3 (là anh trai bị cáo T, hiện đã chết) đã cho con trai của T là Bùi Thế H2. Khi T lấy xe đi không nói cho H2 biết là đi mua bán ma túy, nên cần trả cho anh H2 là phù hợp.

- Các vật chứng còn lại cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận lời đề nghị nêu trên.

Xét đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo D về phần hình phạt chính là có căn cứ chấp nhận. Về số tiền do cơ quan công an đã thu giữ cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

Xét đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo T. Theo như các nội dung đã phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xem xét và quyết định theo quy định của pháp luật.

[9] Trong vụ án này còn có đối tượng tên là T4, theo D khai đã bán cho D 04 túi Heroine ngày 01/4/2021 tại Chùa Hang và người đàn ông tên H nhà ở huyện Phú Lương đã đặt T mua hộ 04 túi Heroine ngày 01/4/2021, do D và T không biết rõ họ, địa chỉ cụ thể của những người này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh làm rõ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh; Tuyên bố: Các bị cáo Trịnh Thị D và Nguyễn Thị T phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

2.Về điều luật áp dụng:

Căn cứ Điều 326; khoản 1 và khoản 3 Điều 329; Điều 106; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Áp dụng điểm b khoản 4 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự (áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo D);  Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

3.Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Trịnh Thị D 20 (hai mươi) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 01/4/2021.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 20 (hai mươi) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 01/4/2021.

Phạt bổ sung bị cáo Trịnh Thị D 15 (mười lăm) triệu đồng nộp ngân sách Nhà nước.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thị T 7 (bảy) triệu đồng nộp ngân sách Nhà nước.

Quyết định tạm giam mỗi bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

4. Về vật chứng: xử lý như sau:

* Tịch thu sung quỹ nhà nước của 2 bị cáo 2 chiếc điện thoại di động đựng trong 01 bì niêm phong ký hiệu L2 trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Trịnh Thị D, Nguyễn Thị T và các thành phần tham gia và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT – Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có2 chiếc điện thoại di động (01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu vàng, số IC: 661E-RM217 của bị cáo T và 01 điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL, màu đỏ đen, số IMEI 1: 355636046782449, số IMEI 2: 355636047282449 của bị cáo D).

* Tạm giữ của bị cáo D 30.000.000đ; của bị cáo T 20.000đ để đảm bảo thi hành án cho mỗi bị cáo.

* Trả cho bị cáo D 01 CMND số 090025094 mang tên Trịnh Thị D.

* Trả cho anh Bùi Thế H2 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave, màu sơn đen xám, BKS: 20B1 – 052.33, số máy JC43E-1731436, số khung: BY169941, D tích xy lanh 109 cm3. Tình trạng xe: xe cũ, đã qua sử dụng, xe không gương chiếu hậu, xước sát, han gỉ, không kiểm tra máy bên trong.

* Tch thu tiêu hủy gồm:

- 01 (Một) niêm phong ký hiệu G trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Minh Thanh, Phan Thanh Huy và 03 hình dấu tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 1,05 gam mẫu vật hoàn lại sau giám định.

- 01 (Một) niêm phong ký hiệu G1 trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Minh Thanh, Phan Thanh Huy và 03 hình dấu tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 1,22 gam mẫu vật hoàn lại sau giám định.

- 01 (Một) niêm phong ký hiệu L1 trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Thị T và các thành phần tham gia và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 36,38 gam lưu kho.

- 01 (Một) niêm phong ký hiệu L trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Trịnh Thị D và các thành phần tham gia và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 111,55 gam lưu kho.

- 01 (một) mũ vải kẻ caro.

(Số tiền và các vật chứng trên hiện đang có tại tài khoản và kho của Cục thi hành án dân sự tỉnh Thái Nguyên theo ủy nhiệm chi số 224 ngày 22/7/2021 và biên bản về việc giao nhận vật chứng số 52 ngày 21/7/2021).

5. Về án phí: Buộc các bị cáo Trịnh Thị D và Nguyễn Thị T, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt các bị cáo, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án. báo cho những người này biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2021/HS-ST ngày 30/08/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về